Spam xả cảng!

Thảo luận trong 'Spam' bắt đầu bởi VÔ HÌNH, 15/7/11.

  1. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Nhắc lại vài qui tắc thường dùng về Hợp Hóa để chúng ta tham khảo hàng ngày.
    Ngoài những lệ ước này là biệt lệ tùy theo tứ trụ.

    Thiên Can hợp và hóa khí phải hội đủ 5 điều kiện:

    1- Thời lệnh (tiết khí tháng sinh):
    - Hợi, Mão, Mùi, Dần> Đinh Nhâm hóa Mộc
    - Tị, Dậu, Sửu, Thân > Ất Canh hóa Kim
    - Dần, Ngọ, Tuất, Tị > Mậu Quí hóa Hỏa
    - Thân, Tí, Thìn, Hợi > Bính Tân hóa Thủy
    - Thìn, Tuất, Sửu, Mùi > Giáp Kỉ hóa Thổ

    *** Bất khả hóa (không thể hóa thành, chỉ luận hợp): có hành Quan sát của Khí đã được hóa, như hóa Mộc thì không nên thấy Kim ***

    2- Nhật chủ:
    - Nhật chủ là chính, như Giáp nhật chủ và Kỉ trụ tháng, xét hóa Thổ
    - Giáp trụ năm và Kỉ trụ tháng, chỉ luận hợp, bất hóa, trừ phi Thìn Tuất Sửu Mùi có đủ (biệt lệ)

    3- Minh Ám:
    - Thấu can gọi là "minh", tàng ở địa chi gọi là "ám"
    - Hai thiên can hợp hóa phải đều là "minh", tức phải thấu ra
    - Như Kỉ thấu can, Hợi là địa chi tàng Giáp, không luận hóa, chỉ có thể luận hợp

    4- Địa vị:
    - Như Giáp trụ ngày và Kỉ trụ năm, bị cách trụ, dù sinh đúng tháng Thìn Tuất Sửu Mùi, không luận hợp hóa.

    5- Tuế vận:

    - Như Giáp trụ ngày gặp Kỉ vận hay Kỉ tuế, luận theo Chánh Tài, bất luận hóa Thổ.
    - Nếu tứ trụ đã sẵn có hóa thành, đến tuế vận thì gọi là đắc hóa, chữ mới thịnh hành là "ứng kỳ"!
     
  2. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member


    Huyệt vị đào hoa, theo quan niệm của Khoa Phong Thủy Trung Hoa gồm có ba hệ thống tính toán. Hệ thống đầu tiên là Lý Khí lại được chia làm hai. Phái Bát Trạch thì lấy cung Diên Niên của phi cung mỗi người làm căn cứ để thúc đẩy Đào Hoa hoặc căn cứ theo cửa để tính. Tức là Tý, Ngọ, Mão, Dậu tức là bốn vị trí của Đào Hoa, tức là chính Bắc, Nam, Đông ,Tây. Tất cả những nhà cửa lớn hướng Dần, Ngọ, Tuất, Đào Hoa nằm ở chính Đông. Cửa lớn hướng Thân, Tý, Thìn, Đào hoa tại hướng Nam. Cửa lớn hướng Hợi ,Mão ,Mùi Đào Hoa nằm chính Bắc
    [​IMG]
    Phái Cửu Tinh huyền không thì lấy sao Nhất Bạch thủy tinh làm Đào Hoa tinh, căn cứ cung vị nó đóng ở mỗi nhà, hoặc bay đến hàng năm để kê đặt cho đúng. Tuy nhiên phái này cũng coi Sao Nhất Bạch này là tán tài, giống như chúng ta ngày nay thường hay đùa nhau rằng : “Yêu là tốn trong nhà một ít !”.
    Hệ thống tính dựa trên Sinh Tiêu ( Tuổi con gì ) thì đặc biệt coi trọng tính khác biệt của mỗi người, dù cùng chung một nhà nhưng tôi có Đào Hoa của tôi, anh có Đào Hoa của anh, “Hồn ai nấy giữ !”.





    Cách tính như sau :

    Năm sinh thuộc Thân Tý Thìn Đào Hoa Tại Tây Phương.

    Năm sinh thuộc Dần Ngọ Tuất Đào Hoa tại Đông Phương.

    Năm sinh thuộc Tỵ Dậu Sửu Đào Hoa tại Nam Phương.

    Năm sinh tại Hợi Mão Mùi Đào Hoa tại Bắc phương.

    Căn cứ vào tuổi của mỗi người, có thể bù đắp làm tốt thêm cho Đào Hoa vị, Đào Hoa chỉ thích hợp dùng cho người có cùng tuổi phù hợp càng quý hơn ( Nghĩa là đối tượng cùng vị trí Đào Hoa thì việc thành công càng dễ hơn ).
    Hệ thống cuối cùng thì đơn giản hơn nhiều. Bạn chỉ cần đứng trong nhà nhìn ra cửa bên tay trái của bạn sẽ là Thanh Long ứng với nam tính, bên tay phải là Bạch Hổ ứng với nữ tính. Nếu bạn là Nam thì dùng Bạch Hổ, Nữ thì dùng Thanh Long. Chia mỗi bên làm ba khoảng cách bằng nhau nếu bạn là con trai thứ 1, 4, 7 thì dùng phần đầu bên Bạch Hổ, 2, 5, 8 thì dùng vị trí thứ hai 3, 6, 9 thì dùng vị trí thứ ba. Nữ cũng thế mà suy ra cho bên Thanh Long. Xin lưu ý là tính thứ tự của mình thì tính anh em nam riêng, chị em nữ riêng.







    Theo tôi trước hết các bạn nên sử dụng theo cách tính của Bát Trạch và Cửu Tinh trước rồi sau đến sử dụng hướng của Sinh Tiêu, hướng cửa. Nếu các vị trí đó đều không thuận tiện để kê đặt thì sử dụng tới Thanh Long, Bạch Hổ.
    Để sử dụng phép thúc đẩy Đào Hoa này các bạn có thể sử dụng các Vật Khí dùng trong Phong Thủy như: tranh Tứ Đại Mỹ Nhân, Tiên Nữ Hoa Đào, đôi Cô Dâu Chú Rể bằng đồng, chữ Song Hỷ, Trái Tim bằng đá Thạch Anh Hồng, tranh Hoa Mẫu Đơn .v.v... hoặc sử dụng ngay các vật có sẵn trong nhà như giường ngủ, bình hoa, bề cá để kê đặt tăng cường cho Đào Hoa vận.
    [​IMG]



    1. Giường Ngủ : Đây là phương pháp đơn giản mà không dễ, bạn chỉ cần căn cứ theo các phép tính toán như trên rồi kê giường nằm quay đầu và đặt trong cung vị đó là được. Tuy nhiên cần lưu ý tránh đừng để phạm vào các tiêu chuẩn khác của khoa Phong Thủy. Song nếu bạn là người yêu mãnh liệt thì không ngại ! Tất cả cho tình yêu !

    2. Bình Hoa : Tại các vị trí Đào Hoa đặt một bình nước trong, cắm hoa tươi. Đây là một biện pháp giản tiện, mà hiệu quả. Tuy nhiên có mấy điều các bạn cần lưu ý như sau :
    - Bình Hoa nhất định phải có nước sạch và hoa tươi ! Nếu chỉ có bình không bạn sẽ phải đối đầu với sự bất hạn trong tình cảm, như yêu đơn phương, hoặc yêu mà không lấy được.
    - Rất cần sử dụng hoa tươi, các loại hoa nhựa, hoa pha lê, hoa khô đều không có kết quả gì. Số cành tốt nhất là 4 vì tượng cho 4 vị trí Đào Hoa làm tăng thêm cơ hội cho bạn.
    - Hoa tươi khi khô héo nhất định bạn phải thay hoa khác, nếu không nó tượng trưng cho tình yêu của bạn nửa đường đứt gánh, hoặc miễn cưỡng trong hôn nhân.

    + Mầu sắc: Màu sắc của bình hoa cũng nên phối hợp tốt với phương vị sẽ đặt. Như Đông, Đông Nam sử dụng màu xanh. Nam sử dụng màu đỏ, hồng. Bắc dùng màu lam, màu đen. Tây và Tây Bắc dùng màu kim, trắng. Tây Nam, Đông Bắc dùng màu vàng, màu cam. Nếu sử dụng theo cách tính Thanh Long, Bạch Hổ thì Thanh Long dùng màu xanh, Bạch Hổ dùng màu trắng.

    + Chất liệu Bình hoa: Bình Hoa có thể sử dụng các chất liệu thuộc hành thổ như Gốm, Sứ, Pha Lê …v…v… bởi hoa vốn sinh trưởng trong đất !

    + Hoa: Dùng hoa tốt nhất là dùng các màu sắc diễm lệ như đỏ thắm, phấn hồng, vàng, tím, các màu đen trắng rất kỵ.

    [​IMG]

    Còn một vật dụng cũng rất quen thuộc nữ cũng dùng thúc đẩy lương duyên mà khoa phong thủy hay dùng đó là bể cá cảnh. Đương nhiên trong bể nhất định phải thả cá thật. Ngày nay do một số người ngại chăm sóc nên dùng bể cá điện tử, trường hợp này cũng tương tự như dùng hoa giả vậy. Mầu sắc của cá cũng khá quan trọng, nói chung là nên sử dụng các loại cá có màu sắc rạng rỡ, tươi tắn, cũng có thể dùng loại cá nhiều màu tha thướt. Tốt nhất là các loại có ánh kim. Xin các bạn lưu ý là không nên nuôi các loại cá thuộc dòng cá chép, bởi cá chép ( Lý Ngư ) chủ về thúc đẩy tài vận, sự nghiệp còn đối với Đào Hoa vận lại vô hiệu. Cá rồng thì càng không nên vì cá rồng sát khí quá mạnh, chủ về trấn sát, trừ tà.


    Xin gợi ý với các bạn một chút về mầu sắc : Đối với những người thuộc phi cung Khảm ,Chấn, Tốn các bạn có thể dùng các có sắc xanh, lam, đỏ. Đối với người có phi cung Ly các bạn có thể dùng màu đỏ, xanh, vàng. Đối với người có phi cung Càn, Đoài nên dùng trắng, bạch kim, vàng. Phi cung Cấn, Khôn nên dùng đỏ, vàng, kim. ​

    Có một điều mà sẽ ít người để ý đó là số lượng cá ; thật ra có nhiều thuyết đưa ra để tính số cá cần thiết ; tuy nhiên có hai điều cần chú ý : Tuyệt đối không thả một con ; nên có cặp đôi trống mái. Vì theo quy luật thiên nhiên thì nam nữ kết hợp mới sản sinh vạn vật. ​
    [​IMG]
    Trên đây là một số cách thúc đẩy tình yêu theo quan niệm triết lý của Khoa Phong ThủyÁ Đông. Mùa xuân về chính là mùa của vạn vật sinh sôi kết thành đôi lứa, chuẩn bị cho một mùa sinh sản mới. Tất cả bừng tỉnh sau một mùa đông dài lạnh giá. Còn các bạn hãy lạc quan cho tình yêu của mình và thử áp dụng thêm các cách trang trí này xem. Hiệu quả đến đâu tự các bạn sẽ chiêm nghiệm, nhưng có một điều quan trọng là các bạn còn yêu và muốn được yêu. ​
    Có một điều nói khẽ là các biện pháp này chỉ dùng cho các bạn chưa có gia đình. Đối với người đã có gia đình thì không có lợi, lại còn hại, vì bạn sẽ vô tình đẩy bạn đời của mình vào tay người khác, hoặc tự chuốc cho mình những rắc rối về tình cảm. Xin hãy cẩn thận ! ​
    Tuy nhiên nếu để bảo vệ hạnh phúc của gia đình mình thì bạn cũng nên nắm rõ vị trí Đào Hoa của mọi người trong gia đình mình để hóa giải, bảo vệ hạnh phúc gia đình. st​
     
    vinhkieu thích bài này.
  3. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Hợp hóa giữa các CAN

    Giáp - Kỷ hóa Thổ
    Ất - Canh hóa Kim
    Bính - Tân hóa Thủy
    Đinh - Nhâm hóa Mộc
    Mậu - Quý hóa Hỏa

    Những trường hợp trên có khi hóa thật, có lúc hóa giả, tùy theo Chi. Nếu Can được thông gốc thì hóa thật, ngoài ra là hóa giả. Khi 2 can được yểm trợ đúng từ gốc thì sự hợp hóa hữu tình, thuận lý; hóa giả là chỉ có bề ngoài. Khi can đại vận hợp hóa với 1 can trong tứ trụ mà hóa giả, nên cẩn thận trong quan hệ với nhau, vì hình thức bề ngoài sẽ không phản ánh đúng bản chất đối xử. Mức độ nặng nhẹ tùy theo tứ trụ, tùy theo hóa ra dụng thần hay kỵ thần, hóa ra Quan hay Tài.

    Cụ thể hóa hợp thật và giả như sau:
    1- Giáp Kỷ
    Giáp phải có chi thuộc Thổ hay Hỏa. Quan hệ được sinh ra là hành Thổ, thuộc tính trung chính, tiến triển vững mạnh. Thí dụ: Giáp Tuất và Kỷ Mùi: hóa thật

    Nếu Giáp có chi thuộc thủy, mộc hay kim thì Giáp sẽ chú ý đến các quan hệ của cha mẹ, bạn bè hoặc sự nhọc nhằn của công việc và mối quan hệ với Kỷ sẽ lỏng lẻo gượng ép. Thí dụ: Giáp Tí với Kỷ Tỵ: hóa giả

    2- Ất Canh
    Ất cần có gốc là Thổ hay Kim để hỗ trợ hành hóa là Kim. Nếu hóa thật, Ất sẽ hết lòng phụ trợ cho Canh, gọi là có nhân có nghĩa thật sự. Thí dụ: Ất Sửu và Canh Thìn.

    Hóa giả là khi Ất có chi thuộc mộc hay thủy. Thí dụ như Ất Mão và Canh Tí. Đấy là "giả nhân giả nghĩa".

    3- Bính Tân
    Bính và Tân đều phải có cùng chi thuộc thủy, kim hoặc Thìn. Nếu hóa thật thì hành thủy sẽ được tận dụng khả quan. Đây là hóa uy lực, vào vận cần có Quan hay Sát thì quyền uy vào bậc nhất. Thí dụ Bính Thìn và Tân Hợi.

    Bính mà gặp chi thuộc hỏa sẽ khắc Tân kim. Tân mà không có thủy hoặc kim làm gốc thì Tân sẽ phản lại Bính. Thí dụ Bính Ngọ và Tân Sửu. Khi gặp vận này hoặc ngay chính tứ trụ thì làm việc tầm thường, kém thế, phận mỏng.

    4- Đinh Nhâm
    Đinh và Nhâm cả hai đều phải có mộc hay thủy trợ lực cho hành hóa là Mộc. Quan hệ sẽ rất sâu đậm. Thí dụ như Đinh Hợi và Nhâm Dần.

    Hóa giả tạo là khi Nhâm gặp chi thủy và Đinh gặp chi hỏa. Cả hai ngược lại sẽ đấu đá nhau sau một thời gian có hấp lực ngắn ban đầu. Thí dụ Đinh Tỵ và Nhâm Tí.

    5- Mậu Quý
    Mậu thổ và Quý thủy phải có chi mộc hoặc hỏa làm gốc. Như vậy hành hóa là Hỏa sẽ được mạnh mẽ. Thí dụ Mậu Ngọ với Quý Tỵ.

    Cả Mậu lẫn Quý đều gặp chi thủy thì ngược lại, hành thủy quá nhiều, quá hàn lạnh nên hành hóa là hành Hỏa sẽ sớm nguội tan. Vì thế mới nói rằng quan hệ hóa giả này là quan hệ vô tình.

    Qua các thí dụ và kiểm nghiệm thực tế sẽ hiểu được tính chất thật của quan hệ hợp hóa; không giống như trong sách chỉ viết ngắn gọn và không giải thích tại sao. Tóm lại, quan trọng là có Chi trợ đúng lực nên Can mới vững. Sự hợp hóa nào cũng thành, tức là có xảy ra, nhưng chỉ khác nhau ở sự phân biệt hóa hữu tình hay hóa vô tình mà thôi.
     
    Lâm Vân and vinhkieu like this.
  4. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Các bạn có để ý rằng khi nói đến Địa Chi thì không đề cập đến quan hệ tương sinh (thí dụ như không nói Tí sinh Mão, hay Thìn sinh Dậu..) mà chỉ luận đến quan hệ KHẮC, XUNG, HÌNH, HẠI của các chi lẫn nhau mà thôi.

    Nhưng các Chi có hợp lại thành HỘI hay thành CỤC, cũng là nằm trong ý nghĩa của sự tương trợ, tương sinh cho nhau và chỉ có ảnh hưởng mạnh khi chúng tụ họp lại. Khi xét trong Tử bình, đầu tiên là xét Tam hội, sau đó là Tam hợp Cục, vì lý do khí của tam hội mạnh hơn khi chúng dồn về 1 phương hướng, khí của chúng "thuần" nên rất mạnh, còn Tam Cục thì do vòng trường sinh tạo thành, lẫn nhiều tạp khí.

    Cát hay Hung của Hội hay Cục là tùy theo tứ trụ. Có khi cần phải cần giải tán Hội, Cục để cứu lấy thân.

    * Tam Hội
    1) Phương Đông Mộc = Dần Mão Thìn
    2) Phương Nam Hỏa = Tị Ngọ Mùi
    3) Phương Tây Kim = Thân Dậu Tuất
    4) Phương Bắc Thủy = Hợi Tý Sửu

    Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là thổ trung ương, theo tiết trời là những tiết cuối của 4 mùa.

    * Tam Cục
    1) Thủy Cục = Thân Tí Thìn
    2) Mộc Cục = Hợi Mão Mùi
    3) Hỏa Cục = Dần Ngọ Tuất
    4) Kim Cục = Tị Dậu Sửu

    Theo bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt của ngũ hành, thí dụ như hành Thủy trường sinh ở Thân (kim sinh thủy), vượng ở Tí (thủy đồng hành) và mộ ở Thìn (thổ cuối mùa Xuân), cho nên Thân-Tí-Thìn hợp lại thành Cục Thủy.

    Các Thiên Can có quan hệ với nhau thì đầy đủ, có Sinh, có Khắc, có Hợp và Hóa. Chính vì thế mà dưới các Chi lại phải tìm Can tàng trong nó, tức là bản khí trời sinh ra của nó. Có Chi thuần khí, có Chi bị tạp khí. Nhưng chung quy là Tử bình xét qua Địa nguyên (CHI) tìm lại bản chất khí ban đầu của Thiên nguyên (CAN), và như thế cũng là tìm được Nhân nguyên (NGƯỜI).

    Đó là thuyết Tam Tài. Thiên Can là trời cho, Địa nguyên là do sinh khí của đất, của cha mẹ tổ tiên, còn Can tàng ẩn trong địa chi đó chính là con người của ta nằm trong môi trường đang có. Vì thế nên luôn luôn có sản sinh ra cái mới mặc dù có sự lập lại của tứ trụ.

    Đây là mấu chốt để hiểu tứ trụ là quan niệm của Tam Nguyên Vận Khí là như vậy.

    Tử bình lấy ngày làm chủ và tiết tháng làm lệnh. Hai trụ này là không gian chính của thời điểm một người sinh ra đời. Trụ năm đã được tính theo vòng 60 niên mệnh, còn trụ giờ có tầm ảnh hưởng nhất định theo ngày.

    Con người quá bé nhỏ trước một nguyên vận 180 năm, đối với 60 năm trung bình một đời người còn khả dĩ xem xét được, nên 12 tiết lệnh của tháng trong năm có tầm quan trọng lớn nhất của tứ trụ. Còn trụ giờ bổ sung vào làm cho sự tính toán có thể "nhìn thấy" được.

    Nếu bạn nào đã có kinh nghiệm, thường thì khi có đủ 3 trụ là có thể suy ra được trụ giờ cho một cá thể thông qua vài phương pháp khác như nhân tướng học và xã hội học.

    Quá trình từ sinh cho đến tử của vạn vật có thể chia ra làm 5 giai đoạn lớn hợp với sự sinh khắc của 5 Hành:

    -Vượng: giai đoạn đang trên đà phát triển mạnh
    -Tướng: giai đoạn đã phát triển, nhưng đứng yên
    -Hưu: giai đoạn nghỉ ngơi, không còn sức phát triển nữa
    -Tù: giai đoạn suy giảm, sa sút
    -Tử: giai đoạn bị khắc chế hoàn toàn, sự vật chết

    Trung bình cho 1 năm nếu tính gọn là 360 ngày thì mỗi một giai đoạn trên chiếm 72 ngày. Một năm chia ra làm 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông có 24 tiết khí thì mỗi tiết trung bình chiếm 15 ngày. Nhưng theo các địa chi hành quyền trong 12 tháng có tàng chứa bản khí, trung khí và khí thừa khác nhau thì số ngày này được tính tùy theo tháng với 12 khí chính như sau (can cuối cùng là bản khí):

    Tháng Giêng - Dần - Lập Xuân
    - Mậu và Kỷ chung 7 ngày, Bính 7 ngày, Giáp 16 ngày
    Tháng Hai - Mão - Kinh trập:
    - Giáp 10 ngày, Ất 20 ngày
    Tháng Ba - Thìn - Thanh Minh:
    - Ất 9 ngày, Quý 3 ngày, Mậu 18 ngày (thổ cuối mùa)

    Tháng Tư - Tỵ - Lập Hạ:
    - Mậu 5 ngày, Canh 9 ngày, Bính 16 ngày
    Tháng 5 - Ngọ - Mang Chủng:
    - Bính 10 ngày, Kỷ 9 ngày, Đinh 11 ngày
    Tháng 6 - Mùi - Tiểu Thử:
    - Đinh 9 ngày, Ất 3 ngày, Kỷ 18 ngày (thổ cuối mùa)

    Tháng 7 - Thân - Lập Thu:
    - Mậu và Kỷ chung 10 ngày, Nhâm 3 ngày, Canh 17 ngày
    Tháng 8 - Dậu - Bạch Lộ:
    - Canh 10 ngày, Tân 20 ngày
    Tháng 9 - Tuất - Hàn Lộ:
    - Tân 9 ngày, Đinh 3 ngày, Mậu 18 (thổ cuối mùa)

    Tháng 10 - Hợi - Lập Đông:
    - Mậu 7 ngày, Giáp 5 ngày, Nhâm 18 ngày
    Tháng 11 - Tý - Đại Tuyết:
    - Nhâm 10 ngày, Quý 20 ngày
    Tháng 12 - Sửu - Tiểu Hàn:
    - Quý 9 ngày, Tân 3 ngày, Kỷ 18 (thổ cuối mùa)

    Các bạn nhận thấy rằng Thìn Tuất Sửu Mùi có vị trí chuyển giao mùa rất rõ và chúng hành quyền vào những ngày cuối mùa rất mạnh. Khi đã sang mùa, hành Thổ đó còn lại vài ngày gọi là "dư khí".

    Bản khí là hành cùng với địa chi, sang tháng sau, hành đó đọng lại vài ngày nhưng chỉ là dư khí. Thí dụ như cuối Lập Xuân, dương mộc (Giáp) mạnh, sang tháng Hai, 10 ngày đầu vẫn còn khí thừa của Giáp, nhưng không mạnh bằng.

    Những tháng giữa mùa như tháng Mão (2), tháng Ngọ (5), tháng Dậu (8) và tháng Tý (11) thường được cho là thuần khí nhất vì là cao điểm của mùa nên có thể chỉ tính bản khí mà thôi. Thí dụ như tháng Mão thuần Ất mộc, âm tính mạnh.

    Khi xét đoán lệnh tháng, cần nhớ những điều này để chọn dụng hỉ thần, vì nếu bản khí không mạnh thì không nên chọn, dụng thần sẽ không có lực.

    Tháng sinh trong năm là một trong những quy ước của Tử bình để tính ra được thân vượng hay nhược. Nó là bước đầu tiên quan trọng khi bạn nhìn vào một tứ trụ. Tiết Khí trong tháng đó chứa những nhân nguyên (can tàng độn) chính mà chúng ta gọi là "Lệnh". Từ Lệnh này mà suy ra được sự vượng, suy của 3 trụ kia, cho nên tháng sinh có yêu cầu cao khi xem xét.

    Xin nhắc lại vài từ cho quen cách dùng trong Tử bình:
    - Vượng: thịnh vượng, hưng vượng, sáng sủa, tốt đẹp
    - Nhược: suy, yếu, tàn
    - Tiết Khí: một năm có 24 Tiết Khí, trong đó chia ra 12 Tiết và 12 Khí được tính theo dương lịch (kinh độ mặt trời). Thường thì người ta hay nói chung là tiết khí, nhưng đúng ra thì gọi Tiết Lập Xuân, Khí Vũ Thủy.
    - Nhân nguyên: như đã có trình bày, mỗi một Chi đều có đủ 5 hành, nhưng chỉ có các Can tàng có ngũ hành hữu dụng trong Chi đó mới được nêu ra. Có khi bạn chỉ thấy Can bản khí mà thôi, thí dụ như tiết Kinh Trập, can tàng chính là Ất, nhưng thật ra còn có Giáp hành quyền 10 ngày đầu, sau đó mới tới Ất. Lý do là Giáp từ Khí của Tiết Lập Xuân còn lại.
    - Lệnh: tức là hành chính của khoảng thời gian đó, nói rõ hơn là Can nào đại diện chính để biết nhật chủ (Can ngày) có tính cách vượng hay suy.

    Có 5 Can dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm
    5 Can âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý

    Vòng trường sinh của vạn vật không thay đổi theo chu kỳ đi tới:
    1. Trường sinh: mọc nầm, nảy sinh
    2. Mộc dục: vừa được sinh ra, lố dạng
    3. Quan đái: dần dần mạnh lên
    4. Lâm quan: trưởng thành
    5. Đế vượng: thành thục, mạnh mẽ cực độ
    6. Suy: bắt đầu giảm chất lượng
    7. Bệnh: khốn đốn, cơ cực
    8. Tử: bị diệt, suy tàn
    9. Mộ: trở về nơi tàng trữ
    10. Tuyệt: tất cả các khí bị mất hết
    11. Thai: khí lại bắt đầu giao nhau, kết thành thai
    12. Dưỡng: đang phát mầm mống

    Can dương thì đi thuận, can âm tính ngược trong vòng Trường sinh. Nói thế không phải là can âm bị tính từ Dưỡng trở về Trường Sinh, mà tính từ Ngọ là thời điểm dương đã lên cao, bắt đầu trở về quy trình âm.

    Một ngày bắt đầu từ giờ Tí cho đến giờ Ngọ giữa trưa là đã thấy bắt đầu âm sinh trưởng, chiều tối đến giờ Hợi là chấm dứt một vòng. Vì thế các can âm trường sinh (bắt đầu lố dạng) tại nơi mà các can dương ở giai đoạn Tử.
     
    Lâm Vân, Giathuan and vinhkieu like this.
  5. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    * TÝ: QUÝ
    * SỬU: KỶ - TÂN - QUÝ
    * DẦN: GIÁP - BÍNH - MẬU
    * MÃO: ẤT
    * THÌN: MẬU - QUÝ - ẤT
    * TỴ: BÍNH - MẬU - CANH
    * NGỌ: ĐINH - KỶ
    * MÙI: KỲ - ẤT - ĐINH
    * THÂN: CANH - NHÂM - MẬU
    * DẬU: TÂN
    * TUẤT: MẬU - ĐINH - TÂN
    * HỢI: NHÂM - GIÁP

    Tý QUý
    Tú QUý Tý QUý Tý QUý Tý QUý Tý QUý Tyúy Tý QUý Tý QUý Tý quÝ qý quÝ tÝ quÝ tÝ qUÝ tÝ quÝ tÝ quÝ tÝ quÝ tÝ quÝ tÝ quÝ tÝ quÝ tÝ quÝ tÝ qu1Y tÝ quÝ
     
    Lâm Vân thích bài này.
  6. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Sửu Kỷ Tân Giáp
    Dần Giáp Bính Mậu
    Mão Ất

    Sử Kỷ Tân Giáp Dần Giáp Bính Mậu
    Mão Ất

    Suu3 Kỷ Tân Giáp
    Dần Giáp Bính Mậu
    Mão Ất
    Sửu KLỷ tân giáp
    Dần Giáp[ Bính Mậu
    Mão ẤT

    Suu37 Kỷ Tân Giáp
    Dần Giáp Bính Mau
    Mão Ất

    Sửu Kỷ tân giáp
    Dần Giáp Bính Mậu
    Mão ẤT

    Sửu kỷ tân giáp
    Dần Giáp bính Mậu
    Mão Ất

    Sửu Kỷ Tân Giáp
    Dần Giáp Bính Mậu
    Mão Ất
     
    Lâm Vân thích bài này.
  7. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp/ Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp /Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp / Sửu Kỷ Tân Giáp
     
    Lâm Vân thích bài này.
  8. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [YOUTUBE]https://www.youtube.com/watch?v=jOENN8A6txQ[/YOUTUBE]​
     
    Lâm Vân thích bài này.
  9. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Tí - Sửu - Dần - Mẹo - thìn - Tỵ - Ngọ - Mùi - Thân - Dậu - Tuất - Hợi

    Hợi - Tuất - Dậu - Thân - Mùi - Ngọ - Tỵ - Thìn - Mẹo - Dần - Sửu - Tí
     
    Lâm Vân thích bài này.
  10. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    hợi tuất dậu thân mùi ngọ ty thìn mẹo dần sửu tí
    hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dân sửu tí
    hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
     
    Lâm Vân and Hương Tràm like this.
  11. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    Hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    Hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẹo dần sửu tí
    Hợi tuất dậu thân mùi ngọ tỵ thìn mẽo dần sửu tí
     
    Lâm Vân and Hương Tràm like this.
  12. Bác Sĩ

    Bác Sĩ Thần Tài Perennial member

    Vtrsinh gì kỷ : Thân dậu tuất , hợi tý / sửu , dần / mẹo thìn , tỵ ngọ mùi . Có ai thấy gì ko ?
     
    anhhoa22 and Lâm Vân like this.
  13. Bác Sĩ

    Bác Sĩ Thần Tài Perennial member

    Ai mà hiểu thì vô địch xóm Hến , mổi ngày trên 1 can có 3 chi , dương lấy con nằm trên , âm lấy con nằm dưới , Pede lấy chính nó .
     
    khatcai, anhhoa22 and Lâm Vân like this.
  14. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    * TÝ: QUÝ
    * SỬU: KỶ - TÂN - QUÝ
    * DẦN: GIÁP - BÍNH - MẬU
    * MÃO: ẤT
    * THÌN: MẬU - QUÝ - ẤT
    * TỴ: BÍNH - MẬU - CANH
    * NGỌ: ĐINH - KỶ
    * MÙI: KỲ - ẤT - ĐINH
    * THÂN: CANH - NHÂM - MẬU
    * DẬU: TÂN
    * TUẤT: MẬU - ĐINH - TÂN
    * HỢI: NHÂM - GIÁP





    :128: Thanks anh Bank để tối em nhập cái này vô não luôn ; em mới nghe tin con NY bể nợ rồi chờ 2014 nó mới về VN cứu em .. time này coi như tự ôm cái phao CCNH mà bơi rồi .. cùng đường còn quyển NGũ hành chân kinh này ráng học vậy ...
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/4/13
    Lâm Vân thích bài này.
  15. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    "Hãy theo đuổi thứ gì đó quan trọng đến nỗi dù thất bại thì thế giới cũng đã trở nên tốt đẹp hơn nhờ vào sự cố gắng của bạn." Nên nhớ rằng chính sức ảnh hưởng tiềm năng của dự án đã giúp bạn làm việc thâu đêm suốt sáng, đó cũng chính những gì bạn cần để thành công.


    [​IMG]



     
  16. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    1 – Giáp Tý, Ất Sửu – Kim đáy biển : ?
    2 – Bính Dần, Đinh Mão - Lửa trong lò : ?
    3 - Mậu Thìn, Kỷ Tị - Gỗ rừng xanh : ?
    4 – Canh Ngọ, Tân Mùi - Đất ven đường : Gặp gỗ rừng là mệnh quý. Gặp Kim là mệnh phú quý.
    5 – Nhâm Thân, Quý Dậu – Kim lưỡi kiếm : Chỉ sợ lửa trong lò và lửa sấm sét
    6 – Giáp Tuất, Ất Hợi - Lửa đỉnh núi : Là mệnh quý hiển nếu có thêm Mộc và Hỏa. Sợ Thủy nhất là gặp nước biển tương khắc thì hung thần tới nơi.
    7 – Bính Tý, Đinh Sửu - Nước khe núi : Gặp Kim rất tốt, nhất là kim trong cát và kim lưỡi kiếm. Mệnh gặp nước suối cực quý. Sợ Thổ và Hỏa.
    8 - Mậu Dần, Kỷ Mão - Đất trên tường : Gặp Thủy và Thổ là quý hiển trừ nước biển và lửa sấm sét.
    9 – Canh Thìn, Tân Tị - Kim giá đèn : Thích Hỏa nhất là Ất Tị, thích Thủy nhất là Ất Dậu, Quý Tị, đó là các mệnh quý. Sợ Mộc khắc trừ khi gặp Hỏa yếu (chắc là lửa của ngọn đèn).
    10 – Nhâm Ngọ, Quý Mùi - Gỗ liễu : Nó , thích Thủy và gặp đất mái nhà là tốt trừ nước biển. Nó gặp gỗ lựu cực xấu và gặp Hỏa dễ chết yểu.
    11 – Giáp Thân, Ất Dậu - Nước ngầm : Gặp Kim trong cát hay Kim trang sức rất tốt, gặp Thủy và Mộc cũng tốt. Nếu trụ năm giờ đều có Thủy và tháng ngày đều có Mộc là mệnh cực quý.
    12 – Bính Tuất, Đinh Hợi - Đất mái nhà : Cần có Mộc làm khung và Kim trang hoàng cực quý, Kim quý nhất là nhũ kim và kim lưỡi kiếm. Sợ gặp Hỏa trừ lửa mặt trời lại là mệnh phú quý.
    13 - Mậu Tý, Kỷ Sửu - Lửa sấm sét : Gặp Thổ, Thủy hay Mộc có thể tốt hoặc không có hại.
    14 – Canh Dần, Tân Mão - Gỗ tùng : Sợ lửa lò, nước biển. Gặp Kim đại quý .Trụ tháng ngày và giờ đều có Nhâm, Quý, Hợi và Tý là mệnh cực quý.
    15 – Nhâm Thìn, Quý Tị - Nước sông : Gặp Kim là tốt gặp Thủy là xấu (dễ vỡ đê). Gặp đất mái nhà hay đất trên tường khó tránh khỏi tai họa cần có Kim để giải cứu. Gặp lửa đèn, lửa trên núi cực quý ngoài ra đều xấu.
    16 – Giáp Ngọ, Ất Mùi – Kim trong cát : Nó là mệnh thiếu niên phú quý nếu gặp lửa trên núi, lửa dưới núi hay lửa đèn (để luyện nó thành vật dụng) nhưng nó cần gặp Mộc (để kiềm chế nếu Kim quá vượng) và Thủy như nước khe núi, nước suối và nước mưa (để khống chế Hỏa nếu Hỏa vượng). Nó sợ nước sông, nước biển, đất ven đường, đất dịch chuyển và cát trong đất (bởi vì nó dễ bị vùi chôn).
    17 – Bính Thân, Đinh Dậu - Lửa dưới núi : Gặp Thổ và Mộc rất tốt, không thích lửa mặt trời, lửa sấm sét và lửa đèn.
    18 - Mậu Tuất, Kỷ Hợi - Gỗ đồng bằng : Sợ nhất gặp kim lưỡi kiếm, thích Thủy, Thổ và Mộc. Sinh mùa Đông trong mệnh lại gặp Dần và Mão là mệnh quý.
    19 – Canh Tý , Tân Sửu - Đất trên tường : Có Mộc là mệnh quý, gặp Thủy cũng quý trừ nước biển. Kim chỉ thích nhũ kim. Sợ Hỏa sẽ cháy nhà (vì tường này là tường của nhà được làm bằng rơm với đất bùn).
    20 – Nhâm Dần, Quý Mão – Nhũ kim : Gặp đất trên thành, đất trên tường mới tốt như gặp Mậu Dần, riêng Quý Mão gặp Kỷ Mão đều là mệnh quý hiển.
    21 – Giáp Thìn, Ất Tị - Lửa đèn : Nó là mệnh rất quý nếu nó gặp Mộc và Thủy như nước ngầm, nước khe núi và nước sông (dầu để thắp đèn) hay Kim lưỡi kiếm. Nó sợ gặp lửa mặt trời (đèn là vô dụng), lửa sấm sét (làm tắt đèn) và đất trừ đất mái nhà.
    22 – Bính Ngọ, Đinh Mùi - Nước mưa : Sợ đất trên tường, đất mái nhà, đất trên thành, đất ven đường và đất dịch chuyển.
    23 - Mậu Thân, Kỷ Dậu - Đất dịch chuyển : Nó thích nước tĩnh như nước ngầm, nước mưa và nước sông. Nó sợ nước biển, lửa trên núi và lửa dưới núi, gặp lửa sấm sét phải dùng Thủy để hóa giải lại là mệnh quý.
    24 – Canh Tuất, Tân Hợi – Kim trang sức : Nó sợ gặp Hỏa, gặp Thủy cũng quý trừ nước biển, nó thích cát trong đất.
    25 – Nhâm Tý, Quý Sửu - Gỗ dâu : Gặp cát trong đất, đất ven đường, đất dịch chuyển, nước ngầm, nước khe núi, nước sông đều tốt. Gặp gỗ tùng, gỗ liễu, gỗ rừng xanh đều quý. Sợ gỗ đồng bằng và gỗ lựu.
    26 – Giáp Dần, Ất Mão - Nước suối : Gặp Kim rất tốt. Sợ gặp Thổ và Mộc trừ gỗ cây dâu là mệnh cực quý.
    27 – Bính Thìn, Đinh Tị - Cát trong đất : Gặp Kim và Thủy là quý cũng như lửa mặt trời, gỗ dâu, liễu, ngoài ra các loại Mộc, Hỏa khác đều không tốt.
    28 - Mậu Ngọ, Kỷ Mùi - Lửa mặt trời : Thích gặp Thủy, Mộc và Kim. Chỉ thích lửa đèn còn các loại lửa khác đều tương khắc. Thích gặp Thổ có thêm Kim và Mộc là mệnh quý. Lửa mặt trời đơn độc với Thủy là xấu.
    29 – Canh Thân, Tân Dậu - Gỗ lựu : Gặp Thổ, Thủy, Mộc, Kim có thể thành tốt trừ nước biển sẽ bần cùng bệnh tật. Lửa mặt trời và lửa sấm sét có thể tốt nhưng cũng có thể xấu. Sinh tháng, năm, ngày hoặc giờ có Hỏa hoặc gặp gỗ liễu là mệnh quý.
    30 – Nhâm Tuất, Quý Hợi - Nước biển : Gặp các loại nước cực tốt, nhất là Nhâm Thìn cực phú quý. Thích lửa mặt trời, kim đáy biển, gỗ dâu, gỗ liễu, đất dịch chuyển, đất trên tường, đất ven đường ngoài ra đều xấu nhất là lửa sấm sét.
     
    Lâm Vân thích bài này.
  17. Lâm Vân

    Lâm Vân Thần Tài Perennial member

    Ún trà đệ ui :tea:
     
    vinhkieu and dongry like this.
  18. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Sự phi thường của đức tin


    - Phạm Tử Hoa là người thích kết nạp dũng sĩ. Ông có một thế lực rất lớn ở Tấn. Tử Hoa không có quan chức gì nhưng uy tín ông vượt hơn cả Tam Khanh (3 quan đầu triều). Cái uy tín đó khiến ông làm được những việc: Từ giàu hóa nghèo, hoặc từ nghèo hóa giàu; người vô tội Tử Hoa có thể làm người chết, người bị tội chết ông có thể cứu sống.

    Có một lão tên Thương Khâu Khai nhà rất nghèo, tưởng chừng trong xã hội không ai nghèo hơn, nghe được quyền lực của Phạm Tử Hoa, họ Thương bèn xốc áo lên đường tìm Tử Hoa. Bọn môn khách nhà họ Phạm thấy ông già lụm cụm, da nhăn nheo rám nắng, áo quần xốc xếch bẩn thỉu biểu môi khinh miệt lão, ông không hề phản ứng. Bọng chúng đưa Thương Khâu đến một cái đài cao, một tên xấc xược nói:

    - Lão nhảy được từ trên đài xuống đất sẽ được thưởng 100 lạng vàng.

    Thương Khâu Khai nhảy liền! Ai cũng tưởng lão tan xương nát thịt, không ngờ lão nhảy xuống nhẹ nhàng như chiếc lá rơi. Dĩ nhiên lão bình yên.

    Bọn chúng lại đưa lão đến vực sâu, nước xoáy cuồn cuộn, nói:

    - Dưới này có châu ngọc nhiều lắm, lão nhảy xuống đó lấy.

    Thương Khâu Khai tin thật bèn nhảy xuống, hồi lâu lão bình thản trồi lên mặt nước, trong tay lão bình thản trồi lên mặt nước, trong tay lão có một viên ngọc. Bây giờ bọn chúng kể cả Phạm tử Hoa rất ngạc nhiên. Phạm Tử Hoa cho lão vào hàng thượng khách. Dè đâu kho tài sản nhà Tử Hoa phát hỏa, lửa khói mù mịt. Phạm tử Hoa sốt ruột bảo Thương Khâu Khai:

    - Nếu ông có thể xông vào lửa khuân ra mấy hòm gấm vóc châu báu, tôi sẽ thưởng công cho ông!

    Lão Thương nét mặt tự nhiên xông vào biển lửa cứu được tài sản của họ Phạm, bụi than không hề dính vào người lão. Bấy giờ bọn chúng mới biết sợ cúi đầu lạy lão và hỏi:
    - Tiên sinh có đạo thuật gì không?

    Lão chân thành đáp:
    - Tôi không có thuật gì cả. Chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên cho tôi lắm. Nhưng tôi biết chắc một điều, lời người ta đồn ông Phạm đây, giàu có thể đổi thành nghèo, nghèo có thể hóa giàu, có quyền khiến ai chết, cho ai sống. Vì tôi quá tin điều đó, nên tôi làm việc gì cũng không trở ngại. Tôi tin tôi sẽ giàu, tôi tin rằng ông Phạm không cho tôi chết. Chỉ có vậy!

    Tể Ngã nghe được điều đó về thuật lại cho Khổng Tử nghe.

    Khổng Tử nói:
    - Người có chí thành có thể cảm hóa được vạn vật, khiến quỷ thần, Trời Đất cảm động, nên có thể tung hoành mà không có gì trở ngại. Các con hãy nhớ kỹ điều đó.

    ___ LỜI BÌNH

    Chuyện này có tính chất đạo học, nó có vẻ gì huyền bí và siêu nhiên. Tuy vậy trên thực tế không phải là không xảy ra. Người Tây Phương có câu "Muốn là được!". Người ta đặt hết niềm tin và hi vọng vào "muốn". "Muốn" như một tâm linh không thể tách rời với cơ thể. Kinh Thánh nói: "Chỉ cần một đức tin lớn bằng hạt cải, có thể xoay chuyển được một quả núi". Thuật thôi miên cũng ở đức tin mà ra. Thôi miên không thuộc về thần học, mà nó thuộc khoa học.

    Sử Ký Tư Mã Thiên có chép một đoạn về Lý Quảng: "Quảng ở Hữu Bắc Bình đi săn, thấy tảng đá trong bụi rậm tưởng rằng đó là hổ, bèn giương cung bắn, mũi tên cắm lút vào. Nhìn lại là tảng đá. Quảng bắn lại lần nữa nhưng không sao găm được!" Bộ sách này rất có giá trị về sử liệu, khó nói ngoa. Lý Quảng là một cung thủ nổi tiếng. Ban đầu đấi tượng kia ông cho là hổ, nếu là hổ ắt mũi tên phải gắm lút vào. Ấy thức ấy đã biến niềm tin mãnh liệt thành sức mạnh. Sau, Lý Quảng biết là đá, thì sự hoài nghi nảy sinh. "Mũi tên bằng cây làm sao có thể xuyên qua đá?". Sự hoài nghi ấy đã làm niềm tin không còn mãnh liệt nữa. Và tất nhiên mũi tên không thể xuyên qua đá được!

    Ở đây, Thương Khâu Khai có một niềm tin tuyệt đối, vì vậy ông xuống nước, vào lửa đều không trở ngại, bởi vì những thứ kia ông vẫn xem nó là không khí, nó là món lợi nhuận, lại có một Phạm Tử Hoa cứu tử, thì ông không hề nghĩ đến cái chết!

    Nhưng đại khối nhân sinh mấy ai có được niềm tin tuyệt đối và mãnh liệt để chứng nghiệm điều ấy đúng hay không đúng.

     
    Chỉnh sửa cuối: 23/4/13
  19. chaubathong

    chaubathong Thần Tài Perennial member

    :133::133::133::133::133::133::133::133:

    Bị bịnh tự kỉ mất rồi

     
    vinhkieu, dongry and Lâm Vân like this.
  20. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    72 phép QUỶ CỐC ĐẤU PHÁP TÂM THUẬT

    Gồm có 72 phép :

    Trong tĩnh có động ,trong động có tĩnh . “Biến sinh ra sự ; Sự sinh mưu ; Mưu sinh kế ; Kế sinh nghị ; Nghị sinh thuyết ; Thuyết sinh tiến ; Tiến sinh thoái ; Thoái sinh chế (chế ngự sự việc).


    -Phép thứ 1 ương mưu –Âm mưu

    “Mưu kế trí lược ,mỗi cái đều có hình dạng của nó : hoặc vuông hoặc tròn ,hoặc âm hợặc dương”.
    Mưu kế có âm mưu và dương mưu,trong bất kỳ tình huống nào ,người ta đều không được coi thường đối phương .Bởi vì sự việc ,có những việc giả dối mà đối phương cố ý tạo ra .Tình báo cũng có tình báo giả .Chnên thánh nhân phải làm cho đối phương không thể dò biết thực hư ,Như nhà buôn phải dấu kín như không có chuyện gì .
    Âm mưu ở đây không phải là thứ thủ đọan của bọn tiểu nhân ,mà là âm mưu của thánh nhân .
    Mưu việc ở âm mà thành sự ở dương .Mục đích là làm cho dân giàu nước mạnh.
    Cho nên Quỷ cốc tử lại nói : Thánh nhân mưu ở âm nên gọi là Thần ,thành ở dương nên gọị là Minh ,chủ sự thành tức là tích đức vậy.

    -Phép thứ 2 :Xoay chuyển Càn khôn

    Giữ vững ý chí ,tinh thần thì sẽ có uy lực. Có uy lực ắt bên trong mạnh ,bên trong mạnh thì không ai địch nổi”.
    Quỷ cốc tử cho rằng :khi tình thế bất lợi cho ta ,ta phải dùng trăm phương ngàn kế để hàm dưỡng sức mạng tinh thần ,và chỉ khi nào sức mạnh tinh thần của ta hùng hậu thì mới có thể Xoay chuyển càn Khôn.

    -Phép thứ 3 :Đánh bại lần lượt:

    “Phân tán được uy thế của đối phương thì ta mạnh như thần”.
    Muốn phân tán uy lực của đối phương thì ta phải phục sẵn ,chờ cơ hội xuất hiện mà lần lượt đánh bại đối phuơng.

    -Phép thứ 4 :Ứng biến thần tình :

    “Tiến thoái xoay trở ,xuất quỷ nhập thần khiến người không biết đâu mà lần”.
    Khi tác chiến ta phải tùy cơ ứng biến không hề cố định ,xoay chuyển tùy ý muốn ,khiến cho đối phương chẳng biết thực hư.

    -Phép thứ 5 :Giành hết thiên cơ:

    “Thánh nhân ở giữa trời đất :lập thân ,tạo nghiệp,lên tiếng ,tuyên truyền đều phải quan sát tượng trời để chớp đúng thời cơ”
    Một người cao minh ,trước sự biến đổi mau lẹ của sự vật ,sẽ biết nắm lấy thời cơ ,vận hội 1 cách kịp thời mà thực thi ,hoặc điều chỉnh kế họach của mình .

    -Phép thứ 6: Họa phúc tùy lời :

    “Lời lẽ của Thánh nhân rất huyền diệu,có thể chuyển nguy thành an ,cứu cả mạng sống”.
    Thế gian có câu : “Một lời nói ra ,ngựa giỏi chẳng đuổi kịp” .Hàn Phi Tử nói : “Cái tâm của kẻ vô mưu,lời lẽ của kẻ có mưu :đều là nguy”.Ngụ ý rằng người ta phải thận trọng trong lời ăn tiếng nói .
    Ngôn ngữ là tiếng lòng ,là biểu hiệu tư tưởng .
    Tục ngữ Trung quốc có câu : “Muốn biết việc trong bụng ,hãy nghe lời cửa miệng “. Họa phúc là tùy ở lời nói vậy.

    -Phép thứ 7 :Chúng bất địch quả:

    Quỷ cốc tử nói : “Xuân sinh ;hạ trưởng ; Thu thu ; Đông tàng .Đạo trời là vậy ,chẳng thể làm trái.” Lại nói : “Làm trái ,dù thịnh ắt suy”.
    Trời đất có 4 mùa thay đổi ,nhân sự cũng có quy luật biến hóa của nó ,mỗi người nếu có hành động trái ngược với quy luật phát triển của sự vật ,thì dù thế lực lớn mạnh đến mấy cuối cùng cũng sẽ thất bại .
    Một người ,nếu hành động đúng theo quy luật phát triển của sự vật ,thì dù hiện thời còn đơn thương độc mã ,nhưng rồi vẫn có thể lấy ít thắng nhiều.

    -Phép thứ 8 : Trăm phương ngàn kế :

    “ Vạn sự trên thế gian biến hóa vô cùng ,tình hình lúc thế này khi thế khác .Người đời cũng trăm phương ngàn kế” .Một vị chủ soái ắt hẵn cũng phải nắm vững nhiều lọai mưu kế để ứng phó với tình húong không ngừng thay đổi.

    -Phép thứ 9 :Thiên địa vô thường:

    “Trời đất luôn thay đổi há có gì trường cửu”.
    Một cái lý chung xuyên suốt giữa trời và người .Khi trời luôn đổi ,nhân sự làm sao bất biến .Một người chỉ 1 mực theo đuổi truyền thống mà không chịu đổi mới ,ắt sẽ bị lạc hậu so với thời cuộc.

    -Phép thứ 10 :Thay cũ đổi mới :

    “Uốn lượn thì toàn vẹn ,cong ắt sẽ qua ,đầy ắt sẽ tràn ,rách nát sẽ đổi mới ,ít rồi đủ ,nhiều ắt giảm”.
    Thay cũ đổi mới là quy luật phát triển của vạn vật trong vũ trụ . Song sáng tạo cái mới bao giờ cũng dựa trên cơ sở truyền thống sẵn có .Không kế thừa truyền thống thì đừng nói gì đến sang tạo cái mới .
    Phải hiểu thấu đáo truyền thống mới có thể tiếp nhận tinh hoa và gạt bỏ cặn bã ,từ đó mà phát huy thêm tinh hoa của truyền thống.

    -Phép thứ 11:Nhìn xa trông rộng :

    “Bậc đại trí dùng cái mà mọi người không hay biết ,cũng dùng cái mà mọi người không nhìn thấy”.
    Cái mà mọi người không hay biết ,không nhìn thấy thì chỉ có bậc đị trí mới thấy rõ .Như vậy gọi là “biết nhìn xa trông rộng”.

    -Phép thứ 12 :Xử lý linh họat

    “Lợi hay thiệt ,được hay mất ,nhiều hay ít …đều dùng âm dương chế ngự .dương động mà vận hành ,âm tĩnh mà thu tàng .dương động mà hiện ra ,âm theo mà nhập vào .Dương cực sinh âm ,âm cực sinh dương”.
    Vạn vật trong thiên hạ luôn luôn thay đổi .Khí hậu có 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông luôn đổi thay .Đời người có sống chết ,đủ thấy biến đổi là quy luật phát triển của vạn vật .Ta phải linh họat chứ không máy móc xử lý mọi việc mới có thể : “Thắng không kiêu ,bại không nản”.

    -Phép thứ 13 :Mưu thâm thích hợp :

    “Phàm theo hay bỏ ,thuận hay nghịch phải tùy theo hoàn cảnh .Hợp ở mưu ắt thành ở sự .Bỏ ta theo ngươi hay bỏ người theo ta :ấy là do mưu thuật có tòan vẹn hay không ?
    Dùng thiên hạ có mưu kế này ,dùng một nước có mưu kế khác ,dùng 1 phái có mưu kế nọ,dùng 1 người có cách dùng riêng .Lón nhỏ tiến thoái …đều có cách thích hợp .
    Xưa nay ,kẻ giỏi xoay trở :theo hay bỏ ,giúp được 4 biển ,chi phối được chư hầu đều trải qua lắm phen chuyển hóa ,theo hay bỏ ,mới tìm ra chổ thích hợp .
    Cho nên Y Dõan mấy bận theo vua Thang ,mấy bận theo vua Kiệt ,cuối cùng mới theo vua Thang .
    Lã Vọng 3 lần theo Văn vương ,3 lần nhập điện vẫn chưa thật rõ .Cuối cùng mới hợp với Văn Vương”.

    -Phép thứ 14 :Hành động bí mật:

    “Đạo âm của Thánh hiền ,đạo dương của kẻ ngu ,đạo của Thánh nhân ẩn giấu rất kỹ”.
    Tướng soái khôn ngoan thường tạo nên những cái giả để mê hoặc đối phương ,ngấm ngầm hành động để giáng cho đối phương những đòn trí mạng.

    -Phép thứ 15 : Đột phá điểm yếu:

    “Từ ngoài chế ngự bên trong ,sự việc có điểm cốt lõi phải nhắm vào đó”.
    Muốn khống chế nội tâm kẻ khác thì phải nắm chắc: đâu là điểm mấu chốt ,đâu là chồ yếu để mà chĩa mũi nhọn vào đó.

    -Phép thứ 16 :Nhỏ mà thấy lớn :

    “Quan sát sự việc,luận về vạn sự ,chớ tranh hơn thua .Phải biết nhìn :cái tuy nhỏ nhưng mà nhìn thấy nó lớn lao”.
    Người thông minh chỉ căn cứ vào triệu chứng nhỏ bé mà biết nó tiềm ẩn sự kiện trọng đại.

    -Phép thứ 17 : Đổi vai chủ - khách:

    “Mạnh tích tụ từ yếu ,Có tích tụ từ không .Yếu muốn thắng mạnh ,mềm muốn thắng cứng thì phảỉ tích yếu ,tích mềm”.
    So sánh thế giữa chủ và khách để đổi vai chủ khách .
    Đó cả là 1 nghệ thuật.

    -Phép thứ 18 :Chiêu nạp người hàng

    “Cự tuyệt là bịt kín lối vào ,đề phòng quá kỹ thì chẳng ai theo”.
    Một vị chủ soái thông minh thì phải có khí phách của 1 chính trị gia vĩ đại ,sẵn sàng chiêu nạp những ai muốn chạy về phía mình .

    -Phép thứ 19 :Ứng địch hành động

    “Tuy động mà ứng ,việc gì cũng xong”.
    Ứng nghĩa là chuyển động sau người ,bất đắc dĩ mới động .”Ứng” đây không phải là thái độ tiêu cực ,bất đề kháng ,mà là dùng “Vô vi” để đạt tới cảnh giờ “Vô bất vi”
    Một cá nhân ,nếu ở đâu cũng hiếu thắng ,tranh giành hơn thua : thì thể lực và tinh thần sẽ bị hao tổn rất nhanh ,tuổi thọ sẽ chẳng được lâu bền
    Ngược lại ,nếu hiểu rõ lẽ “ứng địch nhi động” thì sẽ không vọng động 1 cách khinh xuất .Mà không ngừng rèn luyện thể lực và ý chí 1 cách nghiêm túc ,cho đến khi hòan tòan có khả năng thắng địch thì mới hành động ,
    Không làm thì thôi ,mà đã ra tay thì không có gì cản nổi .
    Đã đánh là thắng.

    -Phép thứ 20 :Tam giáo cửu lưu

    “Tìm kiếm nhân tài ,phải tìm khắp xa gần .Phải có người tài về từng phương diện để khi cần thì ta có thể xử dụng”.
    Một người múôn dựng nghiệp lớn thì phải chiêu nạp nhiều tài năng .
    Tử Nghiêm là người nước Trịnh rất biết chọn và dùng người .
    Công Tôn Huy am hiểu tình hình 4 nước .
    Tỳ Thâm thì giỏi bày mưu.
    Phùng Giản Tử có tài phán đóan mọi sự .
    Tử Đại Thúc thì văn hay chữ tốt.
    Gặp sự việc liên quan giữa các nước .Tử Nghiêm hỏi Công Tôn huy ,sau đó bàn mưu tính kế với Tỳ Thâm ,đọan để Phùng Giản Tử phán đoán mọi khả năng diễn biến của sự việc .Sau khi xong việc bèn để Tử Đại thúc sọan lời văn ứng đối với quan khách các nước.

    -Phép thứ 21 :Bổ dọc chen ngang

    Quỷ Cốc Tử nói : “Dùng cách phân tán uy quyền để chuyển quyền” .
    Người tài giỏi nhất phải biết phá vỡ sự liên minh của các đối thủ phân tán uy lực của chúng mà tăng cường uy thế của mình.

    -Phép thứ 22 : Trói buộc chi phối

    “Lập thế tạo thế .Phải quan sát ,nghe ngóng ,xác định mức độ của người và việc mà định kế an nguy .Xem thiên thời thịnh suy ,địa hình rộng hẹp của các quốc gia ,tài sản của dân chúng ,quan hệ giữa các chư hầu mà dùng thiên hạ.
    Xem tài năng ,khí thế ,sức vóc mà dùng người .
    Xem cái gì ,người nào cần giấu diếm hay phô bày ;cần dung nạp hay mời chào .Xem Đông Tây ,ngó Nam Bắc .Rồi dùng mọi biện pháp khả dĩ để chi phối ,trói buộc 1 cá nhân ,một tập đòan hay 1 quốc gia làm theo ý múôn của ,mà không thể nào làm khác được” .

    -Phép thứ 23 : Liệu địch như thần

    “Ngồi 1 chổ mà nắm biết mọi chuyện trong thiên hạ”.
    Bậc đại trí có thể qua mọi diễn biến phức tạp ,chằng chịt ,qua hiện tượng mà nhận biết phương hướng hành động thật sự của đối phương.

    -Phép thứ 24 : Không lừa nổi ai

    “Kế sách dù muôn ngàn kiểu ,cuối cùng cũng không nằm ngoài tâm lý con người”.
    Người thông minh ,tỉnh táo ,từ triệu chứng nhỏ nhặt tưởng như không đáng kể mà nắm bắt được sự kiện trọng đại để phá vỡ âm mưu của đối phương.

    -Phép thứ 25 :Yếu thắng được mạnh

    “Mạnh tích tự từ yếu ;Có tích tụ từ không.Đó là cả 1 nghệ thuật”.
    Yếu múôn thắng mạnh ,mềm muốn thắng cứng thì phải tích yếu ,tích mềm .Yếu và mạnh chỉ là 1 cách nói tương đối .Trong tình huống nhất định ,yếu cũng có thể thắng được mạnh.

    -Phép thứ 26 : Biến không thành có

    “Thần đạo hỗn thuần vi nhất ,dù đạo trời phức tạp đến mấy cũng có thể suy diễn bất tận”.
    Bậc quân tử hay thống soái có thể suy luận hàng vạn lý lẽbiến hóa trên thế gian để lý giải các bí ẩn vô cùng vô tận.

    -Phép thứ 27 :Uốn ba tấc lưỡi

    “Lời lẽ khôn khéo hay giả dối đều lợi hại khôn tả”.
    Người khôn khoan thường lợi dụng ngôn từ để vẽ ra lâu đài trên cát ,kích thích người ta hăng hái hay dẫn dụ đối phương mắc lừa .
    Múôn được vậy thì phải tô điểm cho thất khéo và nói năng phải thật hùng hồn,đầy sức dẫn dụ và thuyết phục.

    -Phép thứ 28 :Thu phục nhân tâm

    “Dùng tâm hệ trọng hơn dùng binh”.
    Dùng binh vẫn phải lấy việc dùng tâm làm nguyên tắc cao nhất .Chỉ dùng binh mà không dùng đến tâm thì rất là nguy hiểm .Bởi lẽ dùng binh vốn là để giết địch ,nếu ta thất bại thì địch sẽ giết ta .Cho nên dùng binh cũng có thể đem lại hậu quả “tự giết mình”.
    Dùng binh hòan toàn không chỉ giới hạn ở việc dùng mệnh lệnh hay kỷ luật bắt người ta phục tùng ,mà còn phải làm co người ta “tâm phục” .Lòng người đã phục thì dù hành động ,động tác có thể chệch chọac ,song hết thảy đều đồng lòng như một.

    -Phép thứ 29 : Một công đôi việc

    “Vừa lợi cho mình mà cũng lợi cho người,trên hay mà dưới cũng tốt”.
    Một mưu kế phải đem lại nhiều hiệu quả thì mới là kế hay ,kiểu như một mũi tên mà bắn trúng 2 con chim.

    -Phép thứ 30 :Bốn lạng ngàn cân

    “Lượng quyền là gì? Là đo lường lớn nhỏ -xác định nhiều ít”.
    Tướng soái thì phải “biết mình biết người”: mới có thể dùng sức “ bốn lạng mà thắng ngàn cân”.
    Thông thừơng thì 4 lạng có thể bị đè bẹp bởi ngàn cân.Nhưng nếu sức bốn lạng khôn khéo tránh né sức ngàn cân ,rồi sau đó giáng đòn thì có thể hòan toàn thắng ngàn cân.

    -Phép thứ 31 : Ngàn vàng phá địch

    “Mọi sự đều có sự cố kết bên trong ,có thể dùng tiền tài ,nhan sắc để phá vỡ sự cố kết ấy”.
    Dùng nhiều tiền để mua chuộc ,ly gián nội bộ đối phương có thể thu được thắng lợi mà ở chiến trường không thể nào giành được.

    -Phép thứ 32 : Chủ động quyền biến

    “Sự việc quý ở chổ mình chủ động ,nếu để cho người giành được phần chủ động thì hỏng”.
    Người chủ động thì mới giành được quyền hành ,quyền biến .Đã bị động thì khó mà đạt được thắng lợi .Khi lâm sự phải sáng suốt ,cân nhắc lợi hại ,bỏ cái lợi nhỏ mà tránh cái hại lớn ;nhận cái hại nhỏ để giành cái lợi lớn .

    -Phép thứ 33 :Tuyệt đối bí mật

    “Giữ kín mưu đồ thì việc mới thành”.
    1 vị thống soái hay tướng lĩnh muốn giành thắng lợiphải tuyệt đối giữ bí mật.


    -Phép thứ 34: Kích động vua chúa.

    “Tiếp xúc ,phán đoán có nhiều cách :hoặc dùng binh ;hoặc dùng chính ,hoặc dùng hỉ ,hoặc dùng nộ…Dùng nộ là kích động”.
    Người kkhôn ngoan chẳng những dùng lời lẽ để thuyết phục ,phân trần ,mà còn phải dùng những lời lẽ để kích động ,nói khích vua chúa.

    -Phép thứ 35 : Kế sách lâu dài

    “Người thông minh thì luôn nhìn cái rất xa để mà kiểm nghiệm”.
    Người khôn ngoan thì phải biết nhìn xa trông rộng ,sẽ không tham cái lợi nhỏ mà để mất cái lớn ,tham cái lợi trước mắt mà quên kế sách lâu dài.
    Người có đảm lược thật sự thì biết tính tóan sâu xa,chu đáo ,không chỉ thấy cái trước mắt ,không chấp nê tập quán thông thường.

    -Phép thứ 36 :Biết trước thời thế

    “Dự đóan thời thế để quyết định lợi hại ,quyền biến”.
    Một thống soái hay 1 tướng lĩnh nắm được thời là điều trọng yếu .Họ phải hành động lặng lẽ một khi hết thảy chưa ai chú ý ,đến lúc thời cơ chín mùôi là họ ra tay:lập tức làm nên chuyện lớn.

    -Phép thứ 37: Không đánh vẫn oai

    “Người cầm quân không cần lâm trận mà vẫn làm chủ được thiên hạ ,thế mới đáng gọi là Thần minh”.
    Bậc đại trí không cần hao tổn binh lực vẫn khiến cho đối phương phải bãi binh cầu hòa ,thiên hạ nể phục ,đủ sánh với Thần minh.


    -Phép thứ 38 : Nắm quyền bá chủ

    “Chư hầu chống nhau nhiều không kể xiết .Khi quốc gia buớc vào thời điểm sinh tử tồn vong .Bậc vĩ nhân xuất chúng phải xuất đầu lộ diện nắm lấy cơ hội kiến lập nghiệp vương bá.

    -Phép thứ 39:Thay thù thành bạn

    “Trên đời không có gì quý mãi ,không có ai làm thống soái vĩnh viễn”.
    Thế sự biến hóa vô cùng ,hôm nay họ là kẻ thù ,nhưng ngày mai có thể họ sẽ là bạn của ta ,hoặc ngược lại .
    Đó là cả 1 nghệ thuật chuyển hóa.

    -Phép thứ 40 : Chỉ dẫn do người

    “Tình mà hợp thì vật cũng tụ lại với nhau.Đống củi gần lửa lúc khô dễ bén.Nước rót xuống chổ đất bằng ,nơi nào ẩm thì nước sẽ dừng lại”.
    Lòng người cũng vậy .Một thống soái muốn thuyết phục hay là lợi dụng tướng sĩ của đối phương thì phải làm sao cho họ thấy,họ phải chịu ân huệ của mình .

    -Phép thứ 41 :Chiêu hiền đãi sĩ

    “Dùng mưu kế .Công không bằng tư ,tư không bằng kết,kết sao cho chặt”.
    Có nhiều cách kết : có nội kết ;ngoại kết ;sinh kết ;tử kết…
    Trương Lương kết thân với Hạng Bá :đó là nội kết.
    Trương Nghi –Tô Tần : ấy là ngoại kết.
    Lấy đức và ân huệ đã người ,mưu phúc cho dân ,mưu lợi cho nước :ấy là sinh kết.
    Tuyên dương người chết ,úy lạo thân thuộc người đã hy sinh :ấy là tử kết.


    -Phép thứ 42: Áp đặt chủ quan

    “Chớ áp đặt sở thích của mình cho người”.
    Cái mình thích co thể người ta không thích ;cái mình ghét có thể người ta lại ưa .Chớ nên suy bụng ta ra bụng người.Cùng 1 sự việc nhưng 2 người nhìn nhận lại khác nhau :kẻ cho là lợi ;người cho là hại .
    Nếu chủ quan áp đặt dễ phạm sai lầm ,gây hậu quả đáng tiếc.


    -Phép thứ 43 : Mâu thuẫn thống nhất

    “Cao mà hóa thấp –lấy mà hóa cho –mất mà hóa được”.
    Sự vật bao giờ cũng có 2 mặt đối lập nhau,Có những việc bề ngoài tưởng chừng như bất lợi đối với ta ,nhưng thực chất lại hàm chứa ích lợi to lớn đối với ta.

    -Phép thứ 44 :Thủ trước công sau

    “Đối phương hùng mạnh thì ta tạm lui chờ thời chuyển biến”.
    Một quốc gia ,1 qu6n đội hùng mạnh cũng có lúc phải sơ hở ,suy yếu .
    Một quốc gia ,1 quân đội suy yếu ,nếu biết tích lũy thực lực ,nín lặng chờ thời thì có thể trở nên hùng mạnh .Bấy giờ có thể chuyển từ thế thủ sang công.

    -Phép thứ 45 :Kiên tâm bền chí

    “Anh hùng có lúc cũng sa cơ .Khốn tới cùng ắt biến”.
    Người có chí lớn thật sự gặp bất cứ hòan cảnh khó khăn nào cũng kiên trì theo đuổi mục đích của mình ;có thể chịu đừng ,nếm trãi những nổi đau khổ mà người đời không mấy ai chịu nổi .
    Chỉ như thế mới có thể tạo nên sự nghiệp lớn lao.

    -Phép thứ 46 : Lấy tĩnh chế động

    “Trong thiên hạ : con cái thường hay lấy tĩnh đễ thắng con đực ,con cái lấy tĩnh nên ở dưới”.
    Hòan cảnh luôn biến động ,nhân sự thường có đua tranh hơn kém .Trong cuộc tranh đua phải bình tỉnh thì mới giữ được tỉnh táo ,không bị mê lọan về thần trí .
    Phàm người cương gặp kẻ cương thì sẽ tranh chấp không ngừng ,nhưng gặp người nhu thì sẽ trở nên nhu hòa.
    Cho nên mới có câu : Lạt mềm buộc chặt .
    Kẻ cương rất dễ bộc lộ điểm yếu ,ta chỉ cần bình tĩnh quan sát ,đợi cho chỗ yếu lộ ra ắt sẽ chế ngự được.

    -Phép thứ 47 : Quyết giữ chính nghĩa

    “Bậc quân tử có chính nghĩa thì mới chiêu mộ được hiền tài”.
    Ta phải là chính đạo thì mới thu phục được lòng người theo về.

    -Phép thứ 48 : Đánh vào chỗ yếu

    “Người đời có người thích yên tĩnh ,có kẻ thích hành động ,có người hám danh ,có kẻ hám lợi ,có người chính trực ,có kẻ xiểm nịnh ,có người thích sáng sủa ,có kẻ ưa tăm tối”.
    Người khôn ngoan thì phải hiểu rõ điểm yếu của đối phương để mà đánh vào đó.

    -Phép thứ 49 :Ghi công quên lỗi

    “Bậc trí giả không dùng sở đỏan ,mà dùng sở trường của người ngu.Không chú ý đến lỗi lầm mà sử dụng công lao của họ cho nên không bị khốn”.
    Bậc quân tử đối với quần thần phải khoan dung độ lượng như thế ,quần thần mới cảm kích mà đền đáp.


    -Phép thứ 50 :Hạ chiếu cầu hiền

    “Thánh nhân dùng vô vi đãi người có đức”
    Bậc thánh minh phải nghĩ mọi cách ,phải dùng lời lẽ thế nào để thu phục người hiền tài ,đức độ”.




    -Phép thứ 51 :Lưu danh muôn thuở

    “Bậc hiền sĩ dù đã qua đời ,vẫn được mọi người nhắc đến như có tình sâu nghĩa nặng”.
    Có những kẻ sống trên đời chỉ biết tranh danh đọat lợi ,tàn sát hung hãn như mãnh thú .Có kẻ đạt được danh lợi thì kiêu căng tự mãn ,bị tiền của và nữ sắc làm mê muội tâm trí ,dù có sung sướng hưởng lạc vài chục năm nhưng khi chết đi sẽ để lại tiếng xấu ngàn thu.

    -Phép thứ 52 :Thoái binh chế binh

    “Có thuật lui binh ,có phép chế binh”.
    Ngụ ý là 1 người bình tĩnh ,thận trọng ,luôn làm điều thiện ,đức độ cao cả,thhì dù 1 thân 1 mình đi vào hang ổ đối phương ,cũng có thể làm cho đối phương phải kính nể không dám tàn hại .Một người như vậy thì nơi nào cũng là đất sống ,không có gì đáng gọi là hiểm nguy.

    -Phép thứ 53 :Đại hiền vô địch

    ”Người giỏi quyền biến là người : trên thông thiên văn ,dưới tường địa lý ,sai khiến quỷ thần ; tùy thời tiết từng mùa mà biến hóa ,khiến cho vạn vật trong thiên hạ phải phục vụ cho mình”.

    -Phép thứ 54 :Tiến công nước-người

    “Chế ngự người thì nắm được quyền.Đồng thời với việc tiến công nước địch phải chế ngự được người của địch”.

    -Phép thứ 55 : Giữ thế cân bằng

    “Ít rồi sẽ nhiều ,thiếu rồi sẽ đủ”
    Vạn vật trên đời vờua đối lập vừa thống nhất .Lão Tử cũng nói “Đạo trời giống như chổ cao thì dựa vào chổ thấp ,chổ thừa thì bù vào chổ thiếu”.Giữ cho cân bằng,hài hòa là điều tối cần thiết.

    -Phép thứ 56 : Ẩn náu chờ thời

    “Dụng chi hữu đạo ,dụng chi tất ẩn” .Lại nói “Có đạo của Tiên vương ,có mưu của thánh trí ,thảy đều không lộ liễu”.
    Người thông tuệ thường thường ít bộc lộ sở trường của mình ở tất cả mọi nơi ,mà luôn luôn hường nhịn người khác .Nhưng sự ẩn giấu này chỉ là để chờ thời cơ chin muồi sẽ hiển lộ.

    -Phép thứ 57 : Sử dụng nội gián

    “Con Gấu trước khi vồ mồi thường giấu mình rồi mới xông ra .Muốn hành động thì trước tiên hãy dùng nội gián”.
    Người khôn ngoan chẳng những giỏi dùng binh trên chiến trường,mà còn biết cài gián điệp vào hàng ngũ của đối phương để họat động.

    -Phép thứ 58 : Uốn nắn sửa sang

    “Thánh nhân vừa thấy cong bèn uốn nắn lại cho thẳng ,tùy mức độ lệch lạc mà có cáchtrị thích đáng”.
    Khi nền chính trị quốc gia xuất hiện nguy cơ,phải dùng quốc pháp bổ cứu.Nếu nguy cơ nghiêm trọng ,tất phải dùng hình phạt nghiêm khắc.

    -Phép thứ 59 : Lùi để tiến tới

    “Người giỏi dùng thiên hạ xưa nay tất phải lượng định quyền trong thiên hạ,phải phân biệt nặng nhẹ ,mạnh yếu”.
    Bậc hhiền minh thường tránh kẻ mạnh,tạm lùi để tìm cách tiến công.

    -Phép thứ 60 :Cho rồi mới lấy

    “Muốn chiếm lĩnh được gì của đối phương thì trước hết phải đáp ứng phần nào ý muốn của đối phương ,rồi mới lấy được cái mình cần”.

    -Phép thứ 61 :Quan sát gián tiếp

    “Thẩm định hư thực,căn cứ vào thị hiếu mà biết ý chí”.
    Muốn xem xét 1 người,ta hãy xem thường ngày họ bộc lộ ý thích gì để mà phán đóan tình hình.

    -Phép thứ 62 :Đánh rắn dập đầu

    “Kẻ mạnh khi chiến thắng thường chóang váng vì thắng lợi,không tấn công giành thắng lợi trọn vẹn,sớm thỏa mãn thì sẽ chuốc lấy tai họa .
    Kẻ yếu bị thất bại ,nếu biết bình tĩnh suy xét rút ra bài học ,phục hồi lực lượng ,thì có thể lật ngược thế cờ.

    -Phép thứ 63 :Chủ quan hại mình

    “Hợp mà không kết ,dương thân mà âm sơ:Sự chẳng thành”.
    Có những việc tưởng chừng vô cùng thuận lợi,thực ra hết sức khó khăn.Phải đi sâu vào cuộc sống ,nghiên cứu điều tra nắm chắc thực tế ,mới không phạm sai lầm chủ quan,đã làm hại cho mình ,còn hại cả cho người

    -Phép thứ 64 : Dẫn dụ đối phương

    “Những điều dẫn dụ của thánh nhân :kẻ ngu lẫn kẻ trí đều không nghi hoặc”
    Bậc đại trí có thể khôn khéo dẫn dụ được hết thảy mọi người mà đối phươngkhông hề hay biết.

    -Phép thứ 65 :Lợi dụng kẻ địch

    “Thả mồi sâu bắt cá lớn”.Bậc đại trí không những chỉ biết sử dụng những người hiền tài ở phe mình ,mà còn biết lợi dụng những khe hỡ,những mâu thuẫn trong nội bộ đối phương mà sử dụng người của đối phương phục vụ lợi ích cho mình.

    -Phép thứ 66 :Một cây thành rừng

    “Đơn thương độc mã vẫn có thể ra vào tùy ý không ai ngăn nổi”.
    Đông người vẫn chưa chắc là đã giành phần thắng .Một bàn tay cũng có thể tạo nên tiếng vỗ:chỉ cần chân lỳ thuộc về ta ,thì ta vẫn thành vô địch trong thiên hạ.

    -Phép thứ 67 :Tương quan lợi hại

    “Dùng lời lẽ để thuyết phục đối phương nhận ra điều phải trái”.
    Muốn cho đối phương hành động làm theo ý mình thì ta phải biết khôn khéo thuyết phục ,chỉ rõ điều lợi hại.

    -Phép thứ 68 :Hình dung có địch

    “Nghĩ rằng có địch để mình nổ lực”
    Muốn lập nên sự nghiệp lớn ,phải biết hình dung những thế lực lớn mạnh ngăn cản bước tiến của mình ,từ đó mà ta cố gắng không ngừng để vươn tới mục đích.

    -Phép thứ 69: Học hỏi kẻ thù

    “Muốn chiến thắng thì phải biết học hỏi ở tất cả mọi người”.
    Bậc địa trí khi mưu nghiệp lớn chẳng những học hỏi ở những bậc tiên hiền,mà còn học hỏi những cái hay của chính kẻ thù.

    -Phép thứ 70 :Nói mãi phải tin

    “Lời nói của số đông có thể biến không thành có”.
    Nếu giỏi tung tin thì có thể đánh lạc hướng đối phương.

    -Phép thứ 71 :Luồn sau leo cao

    “Phái gián điệp luồn sâu vào đầu não đối phương mà hành động ,có thể dành thắng lợi lớn lao bất ngờ”.
    Nếu gián điệp của ta mà len lõi sâu vào bộ chỉ huy của địch thì thắng lợi gần như cầm chắc.

    -Phép thứ 72: Không màng danh lợi

    “Bậc chân nhân hợp với đạo trời”
    Một người kinh qua tu luyện lâu dài đạt tới cảnh giới thóat tục thì gọi là “Chân nhân”.
    Người ta khi sinh ra ban đầu không khác nhau là mấy .Chỉ sau đó do môi trường ,hòan cảnh khác nhau ;do sự tu luyện nhiều hay ít mà thành ra những hạng người khác nhau.
    Người nào chìm đắm trong danh lợi ắt chuốc lấy họa sát thân .
    Người nào không màng danh lợi thì sẽ thanh thản vui sướng./.
     
    vinhkieu, dongry and chaubathong like this.