Hội họp anh chị em tám chuyện đời , chuyện người ... Quan trọng là ...... Làm chuyện mìnhhhhhh ^_^

Thảo luận trong 'Cà Phê - Trà Đá' bắt đầu bởi Black_Chocolate, 1/4/13.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Flower_of_summer

    Flower_of_summer Thần Tài Perennial member

    THỊ HẾN 1980 thích bài này.
  2. Flower_of_summer

    Flower_of_summer Thần Tài Perennial member

    THỊ HẾN 1980 thích bài này.
  3. Flower_of_summer

    Flower_of_summer Thần Tài Perennial member

  4. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Flower_of_summer thích bài này.
  5. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]


    :128: Thay Cái Ghế đá = Cái Nệm Lông Vũ độ đàn hồi là Ổn ...
     
  6. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

  7. Flower_of_summer

    Flower_of_summer Thần Tài Perennial member

    Ông ngày mai nc zới tui --- hum nay tui thấy ông lạ lắm nghen :132:
     
  8. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    MB
     
    Flower_of_summer thích bài này.
  9. Flower_of_summer

    Flower_of_summer Thần Tài Perennial member

    :137:21 :137::125:
     
  10. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    :126:


    Sáng con mắt bên trái .. đỏ con mắt bên phải còn hên 2 con vẫn sáng do win cái khác
     
    Flower_of_summer and khatcai like this.
  11. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
    Một câu chuyện về thuật bói toán

    Vào những năm Đường Thái Tông ở Trung Quốc có một người tên là Lý Thuần Phong, người Ung Châu, tinh thông thiên văn lịch pháp, có thể “dự đoán cát hung” cực kỳ chuẩn xác, từng nhậm chức Thái Sử Lệnh. Đến những năm Càn Nguyên thời Đường Túc Tông, dòng họ ông có một cụ già tên là Lý Tri Vi, rất giỏi thuật chiêm tinh, hễ xem mệnh bói quẻ, dự đoán họa phúc cát hung, thì ắt nói trúng cả ngày, không sai tý nào. Lão Lý sống tại chợ Tây thành Trường An.

    Đương thời có một người họ Lưu, đến kinh thành Trường An muốn nhờ vả cầu quan, nhưng mấy năm không được. Năm nay, họ Lưu thông đồng với bộ lại (cơ quan hành chính cấp bộ thời xưa), dựa vào quan hệ cửa sau, tự cho là có chí thì ắt nên chuyện. Nghe nói lão Lý xem bói cực chuẩn, bèn đến chợ Tây tìm lão. Ông lão bốc một quẻ và mỉm cười, nói: “Năm nay cầu mà không được, sang năm không cầu mà tự được.” Họ Lưu không tin, đợi đến khi bộ lại niêm yết danh sách, quả nhiên không có tên. Sang năm lại đến kinh thành tham gia đợt thi của bộ lại, nhớ lại lời của lão Lý, ông không nhờ vả quan hệ nữa, nhưng không đủ tự tin, lại đến chợ Tây hỏi lão. Lão Lý phán rằng: “Năm ngoái ta đã nói rồi, chức quan của ông tất thành, không phải ngờ vực.” Lưu Sinh hỏi: “Nếu được làm quan, thì nhậm chức tại đâu?” Ông lão phán rằng: “Làm quan tại đất Đại Lương, làm quan rồi hãy đến gặp ta, ta có lời muốn nói.” Khi bộ lại niêm yết danh sách, quả nhiên tuyển chọn Lưu Sinh làm huyện úy phủ Khai Phong. Lưu Sinh kinh ngạc mừng rỡ, xem lão Lý như thần, rồi lại đi gặp lão. Lão Lý phán rằng: “Ông đi làm quan, không cần tiết kiệm, cứ tùy ý thu nạp, ắt không gặp trở ngại. Khi nào sắp mãn nhiệm, ông có thể xin một chức quan, rồi vào kinh thành, ta muốn gieo cho ông một quẻ.”

    Lưu Sinh ghi nhớ lời dặn, đến phủ Khai Phong làm huyện úy. Bởi vì xuất thân từ quan gia, được quan trên yêu mến, nhớ lời của lão Lý, ông thỏa sức vơ vét tiền tài mà không lo nghĩ gì. Quan lại trên dưới đều rất yêu mến ông. Hết nhiệm kỳ, ông tích lũy được tới một nghìn vạn quan tiền, bèn đến gặp quan Thích Sử, xin làm quan áp giải tô thuế đến kinh đô. Khi đến Trường An, ông lại tới gặp lão Lý. Lão phán rằng: “Trong vòng 3 ngày, ông sẽ được thăng quan.” Lưu Sinh không tin, lão phán tiếp: “Tuyệt nhiên không sai, thăng quan cũng tại quận này, đắc được chức quan rồi, ông có thể quay lại gặp ta.” Lưu Sinh rời đi, trong lòng bán tín bán nghi.

    Ngày hôm sau ông áp tải tiền thuế đến nộp vào ngân khố, đến trước ngân khố chỉ thấy ở phía Đông Nam có một chú chim ngũ sắc bay lên trên nóc nhà, màu sắc rực rỡ, hàng trăm chú chim xôn xao, kéo đến che kín cả bầu trời. Lưu Sinh thốt lên: “Thật kỳ lạ! Thật kỳ lạ!” Nhất thời làm kinh động thái giám trong cung, người trên kẻ dưới đều vây quanh. Có người cho rằng: “Đây là chim phượng hoàng!” Chú chim ngũ sắc nghe thấy tiếng ồn ào liền bay đi mất, hàng trăm chú chim cũng dần tản đi. Chuyện đến tai Hoàng đế, Hoàng đế cho rằng đây là điềm đại cát, liền truyền lệnh: “Tìm xem ai là người thấy trước tiên, nếu là quan thì thăng một bậc.”

    Tra ra thì Lưu Sinh là người thấy trước tiên, liền lệnh cho bộ lại, thăng Lưu Sinh làm tri huyện phủ Khai Phong. Quả đúng nội trong 3 ngày, cũng tại châu này. Lưu Sinh phục lão Lý sát đất, lại đến hỏi lão Lý nên làm quan thế nào. Lão phán rằng: “Chỉ cần giống như ngày trước.” Sau khi Lưu Sinh đến nhận chức, vẫn tham lam vơ vét tiền của, lại có được một nghìn vạn quan tiền, sau khi mãn nhiệm tới kinh thành nghe lệnh thuyên chuyển. Ông lại đến gặp lão Lý, thì lão phán rằng: “Lần này phải làm một vị quan liêm chính, một đồng cũng không được nhận. Cẩn trọng! Cẩn trọng!”

    Lưu Sinh quả nhiên được phong làm huyện lệnh huyện Thọ Xuân. Vì đã quen tham lam vơ vét, sao có thể nhẫn nại được? Đảm nhận chức vụ chưa được bao lâu, bản tính lại nổi lên, ông ta bỏ mặc ngoài tai lời của lão Lý. Không lâu sau, quan trên tước chức của ông, tịch thu tài sản vì tội tham ô. Ông lại đến hỏi lão Lý: “Hai lần trước lão chỉ tôi thỏa sức vơ vét, nhưng nay lại bảo không được nhận hối lộ, hai lần đều ứng nghiệm, ấy là duyên cớ làm sao?” Lão Lý phán rằng: “Đời trước ông là một thương nhân lớn, có hai nghìn vạn quan tiền. Ông qua đời tại Biện Châu, số tiền đó lưu lạc tại nhân gian. Giờ ông ra làm quan, vốn là lấy lại tài sản của mình xưa kia, nên không coi là tham ô, và được bình an vô sự. Người dân huyện Thọ Xuân không nợ nần ông, hà cớ gì ông lại tham lam quá mức? Nên giờ ông vẫn tham lam vơ vét cho bằng được, thì coi như làm chuyện xấu rồi.” Lưu Sinh khắc cốt ghi tâm lời lão Lý, rời đi mà vô cùng hổ thẹn.
     
    Flower_of_summer thích bài này.
  12. khatcai

    khatcai Thần Tài Perennial member

    Ước gì chơi đựoc 3 càng...số mơ nay ra ác thiệt....chả bõ bèn gì, chúa chổm vẫn là ta...thắng thua thua thắng đau cái điền
     
    Flower_of_summer thích bài này.
  13. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Lòng Lành Đổi Tướng Thay Tên

    Người thọ âm dương của trời đất và khí huyết của cha mẹ mà sanh ra, từ bực vua quan cho đến bực dân giả, cũng đều một cách in nhau cả.
    Nhưng trong đó máy tạo có để một cái phân biệt khác nhau là cái tướng, bởi vậy nên người tuy đông, mà không ai giống ai hết.
    Tướng ấy để định cho người: sang, hèn, giàu, khó, yểu, thọ, ngay, gian … Hễ hình hài mang lốt tướng nào, thì vận sự thành theo bực ấy, chớ không khi nào sai.

    Hồi đời vua Vĩnh Lạc, nhà Minh bên Tàu, có một người tên là Trịnh Hưng Nhi côi cút một mình, không cha mẹ bà con chi hết.
    Chàng bèn đến dinh quan Bộ lang là họ Vương, xin ở hầu sai khiến được nửa năm, thì ông thấy chàng mới 17 tuổi mà thật thà, siêng năng và cung kinh nên đem lòng thương, không cho làm việc nặng, để ở trên nhà khách lau dọn bàn ghế, và sai khiến trong khi có khách, hoặc trà nước, hoặc cơm rượu mà thôi.
    Một ngày kia Phu nhân bịnh nặng, thuốc thang đã nhiều mà không thấy công hiệu, nên trong khi quan Bộ lang lo buồn, thình lình có khách là ông Viên thượng Bửu đến thăm.
    Nguyên ông này tên là Trung Triệt, làm chức Thượng bửu tư thừa là con của ông Viên Liễu Trang; cha con tướng thuật như thần, tại xứ Kinh kỳ ai cũng kính phục.
    Khi chủ khách ngồi yên, ông Thượng Bửu ngó quan Bộ lang và nói rằng: “Ngài sao mà khí trệ, chắc là bưu quyến có bịnh không yên; nhưng cái tướng này không phải ở trong sanh ra, thật ở ngoài mà đến, hoặc có chỗ tránh được cũng chưa biết chừng!”.
    Quan Bộ lang vẫn biết ông Thượng bửu là thần tướng, mà nay xem tướng mình lại đoán trúng việc nữa, nên ông muốn hỏi cho cặn kẽ, nhưng chưa kịp hỏi, kế Trịnh Hưng Nhi bưng khay trà lên cho hai ông uống, rồi trở xuống nhà sau.
    Ông Thượng Bửu thấy Trịnh Hưng Nhi, bèn nói nhỏ với quan Bộ lang rằng: “trò nhỏ pha trà đó là người chi trong nhà?”
    - Nó là đứa ở của tôi, mà ngài hỏi làm chi?
    - Quý hiếm của ngài hay sanh bịnh hoạn, là bởi tại trò đó có cái tướng phòng chủ; nếu nó ở lâu với ngài thì sợ trong nhà phải hao người, vậy ngài cũng liệu mà cho nó ra khỏi nhà, thì tự nhiên bình an.
    - Hèn chi từ khi nó đến ở với tôi tới nay ước được năm sáu tháng, mà trong nhà tôi đau ốm luôn luôn, không ngày nào toàn mạnh; nhưng nó tánh nết dễ thương, tôi đâu nỡ đuổi đi!
    Khi ông Thượng Bửu ra về, quan Bộ lang đem lời ấy thuật lại, thì phu nhân nghe liền bảo ông mau cho nó đi.
    Ông sợ trái ý vợ mà thêm bịnh, bất đắc dĩ ông phải kêu Hưng Nhi vào cho mười quan tiền, rồi bảo đi nơi khác mà ở.
    Hưng Nhi khóc lóc mà thưa rằng: “Tôi không có khi nào dám trái ý chủ mà nỡ nào lại đuổi tôi?
    Ông Bộ lang bèn đem việc ông Thượng Bửu xem tướng mà thuật lại, thì chàng biết thần tướng đã nói như vậy, không thể nào ở được, liền lạy ông bà rồi ra đi.
    Quả nhiên khi chàng ra khỏi nhà, thì phu nhân bắt đầu mạnh dần, rồi từ ấy về sau, trong gia đình không ai bịnh hoạn nữa.
    Kẻ trong nhà của quan Bộ lang thấy ông Thượng Bửu nói tướng của Hưng Như như vậy, thì đều giụm năm giụm bảy, luận nọ bàn kia một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền ngàn, làm cho cả kinh thành, ai cũng hay biết việc ấy cả.
    Chàng Hưng Nhi ra ngoài đường, lững đững không biết đi đâu, kế trời vừa tối, chàng vào trong am Quan Âm, nằm trước mái hiên, lăn qua trở lại, ngủ không được.
    Chàng bèn than thở một mình rằng: “Người ta có cha mẹ bà con, lại giàu sang tướng tốt; còn mình đã tứ cố vô thân, lại có cái tướng hại chủ. Nay không tội mà bị đuổi thì ai còn chịu làm chủ mình nữa; chi bằng chết cho mát thân còn hơn”.
    Chàng suy đi nghĩ lại như vậy rồi mỏn sức ngủ quên, bỗng thấy một người đàn bà, tay cầm nhánh lá, ở trong am bước ra đứng ngay trên đầu chàng.
    Chàng bèn lật đật ngồi dậy, thì bà ấy lấy nhành lá chỉ ngay nơi mặt chàng mà nói rằng: “Con chớ nên tự tử vì con tuy có tướng xấu mà lòng con tốt, cũng có ngày kia con được nên thân”.
    Bà ấy nói mấy lời như trên đó, liền bước vào trong am, kế Hưng Nhi giựt mình thức dậy, mới biết là điềm chiêm bao.
    Sáng ngày, chàng nhớ điềm mộng ấy, không dám tính tới việc chết nữa, có lo tìm đến các dinh quan, hoặc các nhà giàu sang mà xin ở hầu hạ.
    Nhưng đáng thương thay! Ai nấy nghe đến cái tên Hưng Nhi cũng đều làm ngơ, không chịu cho chàng ở cả. Chàng đi tối ngày cũng về am Quan Âm mà ngủ trọn nửa tháng trường như vậy.
    Lúc ấy mười quan tiền của quan Bộ lang cho, thì chàng đã tiêu xài hết rồi, nên chàng bối rối trong lòng, biết tính làm sao mà độ nhựt cho qua ngày tháng.
    Một đêm nọ, chàng nằm thao thức, mà nghĩ rằng: “Nửa tháng nay, mình đi cùng hết châu thành và chẳng có một người dung nạp, vậy mai đây mình phải ra khỏi châu thành mà tìm kiếm, họa may có gặp mối chăng!”.
    Sáng ngày chàng thức dậy, vừa ra khỏi cửa thành, thì vừa muốn đi đại tiện; chàng liếc xem bốn phía, thấy nơi bờ hào thành có hai dãy cầu tiêu, dãy bên tả thì đàn ông tới lui không dứt; còn dãy bên hữu thì đàn bà cũng ra vào liên tiếp.
    Chàng nhắm dãy bên tả đi vào, lựa một căn trống bước tới, liền ngồi đại tiện vừa xong rồi khi đứng dậy ngó lên nóc cầu tiêu, thấy một gói bằng vải đen móc tòn ten.
    Chàng lấy làm lạ, liền với tay xách gói xuống, biết nặng mà chưa hiểu vật chi ở trong, bèn đem ra chỗ vắng vẻ mở lớp vải ở ngoài thì thấy có 300 lượng bạc gói trong 30 gói bằng giấy xanh.
    Khi mới thấy bạc ấy, thì chàng mừng rỡ mà nói rằng: “Hay cho ta! Bữa nay hết tiền, may lại được bạc nhiều như thế, thì còn lo chi là nghèo và sợ chi là bị đuổi!”.
    Chàng lại nghĩ rằng:
    “Của này chắc là kẻ đi đại tiện mà bỏ quên, như người khách thương giàu có mà bỏ quên gói bạc này, dầu có mất đi nữa, thì họ còn bạc khác; ta có lấy luôn cũng không dại chi.
    Chớ như người thiếu hụt phải đi vay mượn, hoặc bán đất vườn, để lo việc công danh hay là việc hoạn nạn, mà ta lấy đi thì hại cho gia đình và tánh mạng của người lắm.
    Huống chi trời cho mạng ta cùng cực, làm đầy tớ cũng còn chưa yên lại phước đức đâu có mà hưởng của sẵn này?
    Duy có đem trả lại cho người là phải; đã chẳng hổ với lương tâm, lại khỏi hại đến công việc của người, mà cũng không trái ý Trời nữa”.
    Chàng Hưng Nhi nghĩ vậy, liền xách gói bạc đến gần cầu tiêu, lừa khi người ta không thấy, bèn moi đất vùi lấp gói bạc xuống, rồi ngồi gần một bên, chăm ngó vào cầu tiêu mãi, coi có ai đến kiếm hay không.
    Chàng ngồi một chập lâu, bèn thấy một người đàn ông hơ hải chạy đến, vào căn cầu này qua căn cầu khác, luôn hết cả dãy cầu bên tả, rồi ra đứng ngoài, tay thì bứt tóc trên đầu, miệng thì nói rằng: “Thế này thì tôi phải chết, còn sống làm chi!”.
    Hưng Nhi thấy người ấy hơ hải và nghe mấy lời than thở như thế, thì biết chắc là người đi kiếm gói bạc. Chàng liền lên tiếng kêu rằng: “Ớ anh kia! Có việc chi cần kíp, thì lại đây tỏ cho tôi rõ, họa may tôi có thể giúp đỡ được!”.
    Người ấy nghe kêu liền chạy lại nói rằng:
    “Em ôi! Thời vận của tôi thật xui! Nguyên chủ tôi giao bạc cho tôi đem đến Kinh mà lo sự thăng quan; hồi hôm tôi ngụ tại tiệm cơm gần cửa thành này mà vì phòng ngủ không có được chắc chắn nên tôi thức cả đêm, sáng ra tôi đến cầu tiêu này, lại móc gói bạc nơi cái đinh lớn, rồi khi đi tôi bỏ quên lại đó”.
    Bây giờ tôi biết lấy chi mà lo việc cho chủ, và khi về biết dùng lời chi nói cho khỏi bị tội, nên tôi muốn liều mình tự vận cho rồi”.
    Hưng Nhi hỏi rằng: “Chủ của anh làm quan chi? Còn anh là người chi của chủ, họ tên là gì, xin cho tôi biết, rồi tôi sẽ giúp cho”.
    Người ấy nói:
    “Chủ của tôi là Trịnh Hùng, làm quan Chỉ huy tại phủ Hoài an, còn tôi đây là họ Trương, chụ cho làm chức Đô Quản, và người ta thường kêu tôi là Trương đô quản, nếu em biết ai lấy gói bạc đó, thì nói giùm cho tôi xin lại, ơn ấy tôi không dám quên”.
    Hưng Nhi lại hỏi rằng: “Gói bạc của anh được bao nhiêu và hình tích cái gói ra sao? Anh nói cho tôi nghe thử”.
    Người ấy đáp rằng: “Ở ngoài gói bằng vải đen, còn trong gói có 300 lượng bạc gói bằng giấy xanh, mỗi gói là 10 lượng”.
    Hưng Nhi cười rằng: “Chính em đây lượm được gói bạc ấy, nên ngồi đợi anh mà trả lại”.
    Chàng nói vừa dứt lời, liền moi đất xách gói bạc lên mà đưa cho người ấy.
    Đô Quản thấy gói bạc của mình, thì rất mừng rỡ, bèn mở ra đếm lại, y nguyên không thiếu một lượng nào, rồi đứng dậy vòng tay thưa rằng: “Em nhỏ người mà đức lớn, tôi xin kính lại 50 lạng mà đền ơn”.
    Hưng Nhi nói rằng: “Nếu tôi muốn lấy gói bạc đó, thì tôi đã đem đi mất rồi, cần gì phải ngồi đây đợi anh làm chi. Xin anh chớ nên làm hư cho cái tâm thuật của em”.
    Trương đô Quản hỏi rằng: “Em nhà cửa ở đâu, tên họ là chi, xin cho tôi biết, phòng sau tôi tìm đến mà đáp tình?”.
    Em tên là Trịnh Hưng Nhi, 17 tuổi mồ côi từ thuở bé, không cha mẹ, không bà con, không nhà cửa chi hết. Em đương ở đày tớ cho quan Bộ lang, bị thầy tướng nói em có tướng hại chủ, nên bị đuổi đi hơn nửa tháng nay mà không chỗ nương tựa”.
    Đô Quản nghe nói, thì động mối thương tâm bèn nói rằng:
    “Em đương con cùng cực mà thấy của không tham thật là lòng dạ Thánh Hiền, dẫu người xưa cũng không bì kịp.
    Thôi! Em không cần đi đâu làm chi cứ theo tôi vào quán ăn uống và nghỉ ở đó với tôi, đặng sáng ngày mai em giữ giùm hành lý còn tôi thì vào các dinh quan mà lo công việc, đến chừng xong rồi tôi sẽ dẫn em về Hoài An thưa cho chủ tôi biết.
    Vả lại chủ tôi cũng đồng họ với em có lẽ em chắc được việc tốt. Dầu chủ tôi không dùng em, còn tôi đây làm chức Đô Quản có thể nuôi em năm ba năm cũng được”.
    Hưng Nhi nghe nói rất mừng, kế hai người dắt nhau vào quán ăn uống nghỉ ngơi, sáng ngày Hưng Nhi ở nơi quán mà giữ đồ hành lý, còn Đô Quản thì vào Bộ binh lo việc thăng bổ cho chủ mình là Trịnh Hùng xong, rồi trở lại chỗ nghỉ mà dẫn Hưng Nhi về xứ.
    Khi đến Hoài An thì Đô Quản để Hưng Nhi đứng ngoài cửa ngõ; còn chàng thì vào bẩm các việc tại Kinh cho chủ hay.
    Quan chỉ huy nghe nói rất mừng, bèn thốt rằng:
    “Nay ta được thăng chức Du kích Tướng quân là cũng nhờ người thông thạo mới được việc”.
    Đô Quản bẩm rằng: “Không phải nhờ tôi; thiệt là nhờ vị cứu tinh! Nếu không có vị cứu tinh đó, thì chẳng những chủ đã không quan chức mà thôi, lại tánh mạng của tôi cũng không còn!”.
    Ông Du kích hỏi rằng: “Vị cứu tinh nào đó?”
    Đô Quản bèn đem việc mất bạc nhờ Hưng Nhi lượm được rồi trả lại, như vậy sao không thỉnh về cho ta đền ơn?”
    Đô Quản bẩm rằng: “Tôi có dắt người về, nhưng còn đứng ngoài cửa ngõ”.
    Ông Du kích lật đật ra ngoài nghinh tiếp, rồi dắt thẳng vào nhà khách mời ngồi, nhưng Hưng Nhi không dám cứ xin để cho chàng đứng hầu mà thôi. Sau chàng bị mời ép đôi ba phen, nên phải kéo lui cái ghế mà ngồi sụt ra sau.
    Ông Du kích nhắm xem trạng mạo của Hưng Nhi biết không phải là người hạ tiện, liền nói rằng: “Nhà ngươi họ Trịnh, còn ta đây cũng họ Trịnh, tuổi gần năm mươi mà vợ chồng trơ trọi không con. Ta muốn nhận nhà ngươi làm con phòng ngày sau nối dòng cho họ Trịnh mà không biết nhà ngươi vui lòng chăng?”
    Hưng Nhi bẩm rằng: “Phận tôi hèn hạ, nếu quan lớn thương tội cho ở để sai khiến, thì cái ơn ấy đã lớn lắm rồi, có đâu dám mong đến sự làm con!”.
    Ông Du kích nói rằng: “Không phải như vậy đâu! Nhà ngươi là một vị ân nhân của ta mà lại là người khinh tài trọng nghĩa nữa; nếu ta lấy tiền của mà đền đáp thì nhà ngươi không chịu; còn mang ơn mà không báo thì ta là người gì?
    Hưng Nhi nghe nói cạn lời thì chàng hết phương từ chối, liền cúi lạy ông mà kêu bằng cha.
    Ông Du kích bèn cho mời phu nhân ra cho chàng lạy mà kêu bằng mẹ, rồi đặt tên chàng lại là Trịnh Hưng Bang.
    Từ ấy về sau ai nấy ở trong xứ đó cũng kêu chàng bằng Công tử cả.
    Nói qua Trịnh Hưng Bang thời tốt vận đỏ nên từ khi làm con của quan Du kích tướng quân, thì chàng xem sóc các việc trong ngoài, lại biết quạt nồng ấp lạnh, sớm viếng tối hầu, phải đạo một người con hiếu.
    Quan Du kích thấy vậy vui mừng khôn xiết bèn đem hết 18 món võ nghệ chỉ dạy chẳng ít lâu, thì chàng đều tinh thông cả.
    Ông lại rước thầy văn thật giỏi về dạy nữa, thì chàng cũng gắng chí học hành, xôi kinh nấu sử được vài năm đã thành ra một người văn võ kiêm toàn, thiên hạ thảy đều kính phục.
    Sau nhân quan Du kích làm chức Tiên phong đi đánh giặc Sào hồ, thì Trịnh Hưng Bang cũng theo cha lập được nhiều công trận.
    Quan nguyên soái thấy vậy đem lòng yêu mến, bèn phong chàng làm chức Chỉ huy rồi đến lúc yên giặc bang sư về triều, vua Vĩnh Lạc phong quan Du kích làm chức Điện tiền Đại tướng quân và phong cho Trịnh Hưng Bang chức Du kích tướng quân.
    Từ ấy cha con đều ở tại Kinh sư mà cung chức.
    Một ngày kia, Trịnh Hưng Bang sực nhớ lúc ở hầu hạ quan Bộ lang tuy chàng bị đuổi,
    nhưng biết xét rằng, tại chủ nghe lời thầy tướng chớ không phải ở bạc tình với mình. Chàng bèn nghĩ rằng đã về ở gần nhà mà không đến thăm viếng thì sao phải là đạo làm người.
    Khi chàng vừa đến dinh quan Bộ lang thì gia nhân chạy vào báo rằng: “Có quan Du kích đến viếng”.
    Quan Bộ lang lật đật ra ngoài nghinh tiếp thẳng vào nhà khách rồi mời ngồi nhưng quan Du kích đứng vòng tay mà thưa rằng:
    “Ngài là chủ còn tôi là tớ thì đâu dám ngồi đồng bàn, vậy tôi xin đứng hầu mà thôi”.
    Quan Bộ lang nghe nói lạ như vậy, bèn hỏi rằng: “Sao quan Du kích lại xưng hô như thế, làm cho tôi xốn xang tấc lòng”.
    Du kích thưa rằng: “Vậy chủ không nhớ tôi đây là Hưng Nhi sao?”
    Quan Bộ lang nghe nói liền nhìn kỹ lại mới biết là thằng ở của mình đuổi thuở trước, chỉ khác vì mặc áo, mão rực rỡ mà thôi.
    “Rỡ mình lạ vẽ cân đai,
    Hãy còn hàm én mày ngài như xưa”.
    Quan Bộ lang đứng dậy nắm tay quan Du kích mà xin lỗi rằng: “Khi đó tôi nghe lời Viên thượng Bửu, khiến cho tôi đắc tội cùng ngài, nay đã muộn rồi, ăn năn không kịp vậy xin ngài dung thứ cho tôi”.
    Quan Du kích bèn thưa rằng: “Trăm việc đều tại Trời, không phải bởi người làm chủ. Nếu lâu nay tôi còn ở đây thì bây giờ tôi đâu có phát đạt; việc ấy là tôi nhờ lời nói của ông Thượng Bửu, nên tôi không phiền chủ chút nào và tôi cũng cám ơn ông Thượng Bửu nữa”.
    Lúc ấy vừa có kẻ gia nhân vào báo rằng: “Có ông Thượng Bửu đến viếng thì hai người muốn thử ông, bèn nói nhỏ với nhau rồi dắt vào trong phòng mà sửa soạn.
    Khi ông Thượng Bửu vào đến nhà khách, thì quan Bộ lang bước ra chào hỏi mời ngồi và bảo trẻ đem trà ra thết đãi, kế thấy Hưng Bang mặc đồ cũ của kẻ gia nhân tay bưng khay trà bước ra pha, rồi khoanh tay đứng hầu.
    Ông Thượng Bửu thấy Hưng Bang bèn ngó xem một hồi rồi hỏi rằng: “Ngài này là người chi trong nhà, xin mời ngồi đây nói chuyện sao lại phải đứng như vậy?”
    Quan Bộ lang nói: “Ngài không nhớ Hưng Nhi ở nhà tôi thuở trước mà ngài nói có tướng phòng chủ hay sao?”
    Ông Thượng Bửu nghe nói, sực nhớ chuyện cũ năm xưa liền xem lại kỹ lưỡng mà đoán rằng:
    “Ngài này thật quả giống Hưng Nhi năm trước, nhưng tướng xấu thuở ấy đã biến đi đâu mất rồi, nay lại hiện ra cái tướng quan võ, giàu sang gồm đủ.

    Vả lại tướng ngày nay là bởi nhờ âm đức mà phát ra, tôi dám đoán chắc ngài có làm một việc âm đức chi, hoặc cứu người khỏi chết, hoặc xí được của rồi trả lại cho người, nên mới đổi được cái tướng tốt ấy”.

    Trịnh Hưng Bang nghe nói mấy lời bèn khen rằng: “Phép xem tướng của ngài thật là thần diệu”.

    Chàng bèn đem việc từ khi bị đuổi tới khi được bạc, rồi đến xứ Hoài An làm con của quan Chỉ huy từ trước đến sau thuật lại không sót một mảy.
    Quan Bộ lang hỏi rằng: “Nếu vậy thì hình tướng của người ta cũng có lúc dời đổi hay sao?”

    Ông Thượng Bửu nói: “Ngài không nhớ trong sách tướng có câu rằng: “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt” đó hay sao? (nghĩa là: lòng tốt tướng xấu, thì tướng theo lòng tốt mà hiện ra; còn tướng tốt lòng xấu, thì tướng theo lòng xấu mà tiêu mất).
    Khi ấy quan Bộ lang liền dắt Trịnh Hưng Bang vào trong phòng mà thay áo mão như cũ, rồi đồng ra uống trà nói chuyện với ông Thượng Bửu.
    Sau Trịnh Hưng Bang làm đến chức Đại tướng quân, có vợ sanh con đẻ cháu, nối dòng họ Trịnh, làm quan võ luôn luôn.
    Đó là một tích người có lòng lành mà Phật trời đổi tướng bần cùng biến ra tướng phú quí. Cái lành ấy là thấy của không tham, cứu người khỏi chết mà được kết quả như vậy.


    âu chuyện luân hồi:

    Duyên Nợ Tái Sinh

    Ngày xưa, có một anh học trò trẻ tuổi nhà nghèo xơ nghèo xác. Vì có cha mẹ già, anh phải lang thang đây đó làm nghề gõ đầu trẻ để nuôi thân và nuôi cha mẹ. Mãi về sau, anh được một phú ông ở một làng nọ mời về "ngồi" tại nhà mình để dạy cho con học. Anh mừng thầm từ nay có chỗ yên thân để ôn luyện văn bài. Phú ông có nhiều nhà, y cho thầy đồ ở riêng ngôi nhà thờ ở góc vườn để được tĩnh mịch dạy học. Ngoài ba bữa cơm hàng ngày của phú ông, anh còn nhận được tiền gạo của những người khác có con đến học với anh, nên anh cảm thấy đầy đủ.

    Phú ông có một cô con gái đã đến tuổi lấy chồng. Từ ngày có anh đồ tới, cô con gái cảm thấy lòng mình đỡ trống trải. Mặc dầu ở ăn cách biệt, cô gái và anh đồ vẫn nhiều phen gặp gỡ. Cô đâm ra yêu chàng ngày một tha thiết và cô cũng được chàng yêu lại. Mối tình vụng trộm cứ thế mỗi ngày trở nên keo sơn, không thể gỡ ra được nữa. Vì thẹn thò và sợ hãi, cô gái cũng không dám nói thật cho cha mẹ biết.

    Hai người yêu nhau như vậy đã được vài năm. Nhưng một ngày nọ, có một nhà phú hộ khác ở cùng miền, mang trầu cau đến dạm cô cho con. Cha mẹ cô gái thấy hiếm có đám nào môn đăng hộ đối hơn thế, nên hối hả nhận lời. Nhưng khi hỏi ý kiến con gái thì phú ông đâu có ngờ rằng con mình xưa nay ngoan ngoãn là thế, trước việc nhân duyên tốt đẹp của mình lại tỏ ra khó tính lạ lùng. Cả vợ lẫn chồng hết lời dỗ dành con, nhưng không kết quả. Mãi về sau, cô gái mới cho cha mẹ biết là mình đã chỉ thề non hẹn biển với anh đồ và quyết kết nghĩa trăm năm. Nghe nói thế, phú ông từ lòng thương con chuyển sang giận dữ. Đời nào ông lại chịu hạ mình gả con cho một người kiết xác như vậy. Ông nhất định không để con gái làm sai chuyện hứa hôn. Cô gái trước còn khăng khăng từ chối, nhưng sau bị gia đình và họ hàng ép buộc, nên tuy uất ức mà đành ngậm miệng. Con về phía anh học trò biết phận mình không đất cắm dùi, nên cũng không dám tỏ bày nỗi lòng với vợ chồng phú ông. Vì vậy, sự định đoạt của phú ông coi như mười phần đã xong đến tám chín.

    Thấm thoát mà đã một năm nữa lại trôi qua. Con trai nhà phú hộ sau mấy lần sêu tết đã chuẩn bị xong lễ cưới. Vì không có ai bênh vực, không một người đồng tình nên cô gái nhẫn nhục kia cảm thấy quẫn trí. Không còn biết cầu cứu với ai, cô quyết tự liều tấm thân còn hơn phải lấy người mà mình không ưa. Một đêm nọ, trước ngày đón dâu, cô trốn lên nhà học tự tình với anh đồ. Hai bên chuyện trò than vãn với nhau đến tận sáng. Cuối cùng cô gái lấy gói thuốc độc mang sẵn trong mình ra uống lén, và chỉ một lát quằn quại chết ngay trong lòng anh học trò.

    Thấy người yêu tự vẫn mà trước sau vẫn không một lời bộc bạch cho mình biết, anh học trò lòng đau như cắt. Nhưng dầu không ngăn được nước mắt giàn giụa, anh cũng cảm thấy hết sức bối rối và sợ hãi, nghĩ đến cái chết bất ngờ của người yêu nhất định sẽ làm cho mình mang tai vạ vào thân.

    - Nếu mình đeo gông ngồi tù thì cũng đành cam chịu, nhưng cha mẹ già rồi đây biết cậy nhờ vào ai?

    Càng nghĩ anh càng bủn rủn chân tay. Cho đến lúc gà gáy canh năm mà anh vẫn chưa biết xử trí thế nào. Cuối cùng anh nghĩ ra một kế. Anh đứng dậy đi kiếm cuốc thuổng rồi đào dưới gậm giường mình nằm một cái huyệt. Đào xong anh ôm lấy thi thể của cô gái mà thề với vong linh nàng:

    Kiếp này duyên đã lỡ duyên

    Quyết xin giữ trọn lời nguyền kiếp sau.

    Sẵn có bút son trên bàn, anh viết vào tay cô gái hai câu:

    Thử sinh duyên vị liễu;

    Nguyện kết hậu sinh duyên[1].

    Viết đoạn, anh đặt xác cô xuống huyệt, lấp đất lại, lại sửa sang nền nhà thật cẩn thận, nhặt từng hòn đất, sắp từng viên gạch, rồi chùi rửa cuốc thuổng không để một vết tích gì khả nghi. Xong đâu đó anh lại lên giường nằm đợi trời sáng.

    Lại nói chuyện nhà phú ông sáng hôm sau thấy con gái mất hút, bèn cho người đi khắp mọi ngả để tìm. Bên nhà trai nghe tin cũng cho người do la khắp miền. Nhưng ngày một ngày hai vẫn không một manh mối, không một tin tức gì mới mẻ. Phú ông đoán con gái mình vì không cam chịu ép duyên nên đã liều thân hoại thể ở chỗ nào xa xôi. Mặt khác sợ bọn quan nha lính tráng dựa dẫm vào việc này để đục khoét, nên ông cố ỉm đi không dám trình báo. Cuối cùng, sau những ngày hối tiếc thở than của bà con thân thích, sau những cuộc bàn tán xôn xao của xóm giềng, câu chuyện cô gái mất tích cùng với thời gian xóa mờ dần trong mắt trong ký ức mọi người.

    Về phần người học trò, sau khi bí mật chôn xác người yêu, phần vì thương cảm quá độ, phần vì muốn tránh mặt vợ chồng phú ông, nên được ít lâu anh thôi dạy. Phú ông cho là thầy đồ thất tình, cũng không nghi ngờ gì cả. Rời nhà phú ông, anh đi thật xa, kiếm được một chỗ ngồi dạy khác, rồi cố nén đau khổ, tự rèn luyện thành tài để đợi khoa thi. Sau mười lăm năm sôi kinh nấu sử, sức học của anh uyên bác không ai bì kịp. Anh đi thi và đậu luôn tiến sĩ. Những ngày vinh quy rộn ràng tấp nập đã qua, nhà vua bổ anh làm quan ở một trấn gần kinh kỳ, bố mẹ cũng như hàng xóm mỗi lần gặp anh, ai cũng khuyên anh lấy vợ kẻo muộn người nối dõi, nhưng anh một mực mỉm cười, không gật đầu cũng không từ chối.

    Hồi bấy giờ ở một thị trấn do quan tân khoa trị nhậm, có một nhà phú hộ hiếm hoi sinh được một cô gái nhan sắc sinh đẹp, nhưng lại có tật. Từ lúc sinh ra, mấy ngoan tay cô bị váng dính liền nhau, và vì thế bàn tay trái luôn nắm lại không thể mở ra được. Thấy con tật nguyền, nhà phú hộ lấy làm buồn phiền. Họ bắn tin ra hễ ai chữa khỏi cho con gái mình thì sẽ vui lòng hậu tạ tất cả gia sản.

    Bao nhiêu danh y nội khoa, cũng như ngoại khoa tìm đến chữa chạy bằng đủ các món thuốc, nhưng cô gái chứng nào vẫn tật ấy.

    Quan tân khoa lúc mới tới vùng đó đã loáng thoáng nghe được tin này. Mặc dầu đó là cái tin hơi lạ, quan tân khoa vẫn không bận tâm. Mãi về sau, nhân một chuyến đi hành hạt, quan ghé vào nhà phú hộ định bụng xem thử cho biết. Thấy có quan đến nhà phú hộ tiếp đón rất trọng thể. Nghe con hỏi về chuyện bàn tay con gái, chủ nhân cho biết con gái mình đẻ vào ngày, tháng, năm nọ, nhưng vừa lọt lòng không may đã mang tật nguyền. Nghe lời trình bày của phú hộ, quan đã lấy làm chột dạ, vì ngày tháng năm sinh của cô gái này lại trùng khớp một cách lạ lùng với ngày tháng năm mất của người yêu của mình trước đây. Quan liền nói:

    - Chúng tôi cũng biết chút nghề y. Cụ hãy cho cô em ra đây thử xem sao.

    Nhà phú hộ vào buồng dắt cô gái ra, khi thấy mặt nàng, quan bỗng nhiên bồi hồi xúc động, vì giống hệt mặt người yêu xưa, hầu không sai một nét. Quan liền sai người hầu múc đến cho mình một thau nước lã. Đoạn quan cầm bàn tay nàng nhúng vào nước, rồi tự mình vuốt các ngón tay. Tay quan vuốt tới đâu, váng bỗng trôi đi tới đó. Cuối cùng năm ngón búp măng của cô lại xòe được ra như thường. Khi mấy ngón tay vừa duỗi một mối kinh ngạc đến với mọi người, vì họ thấy lộ ra những dòng chữ:

    Thử sinh duyên vi liễu,

    Nguyện kết hậu sinh duyên.

    Mười chữ son vẫn còn đỏ thắm trong bàn tay cô gái. Nhưng tất cả mọi người lấy làm ngạc nhiên hơn khi quan luôn tiện kể lại câu chuyện cũ của mình chôn kín trong lòng từ bao nhiêu năm nay: nào là hai người yêu nhau ra làm sao, cô gái nhà phú ông nọ bị ép uổng như thế nào, cuối cùng cô đã tự tử vào lúc nào và được mình chôn cất, thề bồi, v.v... Quan ứa nước mắt kể mãi, kể mãi; sau đó quan chỉ vào cô gái và nói:

    - Thật là có trời! Đúng là một cuộc tái sinh không thể nào ngờ được!

    Nhà phú hộ sau đó gả cô gái cho quan và biếu chàng rể tất cả gia sản làm của hồi môn. Đám cưới tổ chức rất linh đình, co vị đại thần, người của nhà vua về dự. Rồi quan đưa vợ về quê chào cha mẹ họ hàng. Quan còn không quên đưa vợ tìm đến nhà phú ông cũ, người đã đón mình ‘ngồi" dạy học tại nhà ngày trước. Thấy người đàn bà giống với con gái mình thủa xưa như đúc, phú ông rất đỗi kinh ngạc. Phú ông càng ngẩn người khi nghe quan kể lại câu chuyện về đứa con mất tích thủa nào. Mới đầu phú ông tỏ ý không tin. Nhưng khi quan chỉ chỗ chôn cô gái ở gậm giường, và sai đào lên, quả đúng như vậy.

    Từ đấy quan nhận cả hai người phú hộ làm ông nhạc, và ăn ở với cô gái trọn đời


    [​IMG]
     
    Flower_of_summer and khatcai like this.
  14. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    E xin kể một câu chuyện ko biệt ai biết chưa ! ngày xừa bên trung Quốc có một chàng phu đốn củi siêng năng, cần mẩn nhưng vẫn nghèo... ông ta quyết định đi xem bói và thấy bói phán số ông ta bần hè. ông ta hỏi tại sao thấy bảo " ông có nốt rùi giửa tráng" bần hèn suốt đời. nghe xong ông ta vô cùng nản cho cuộc sống. sau đó về nhà ông ta không còn xiêng năng đi đốn củii nửa, đi đốn đủ thui. vậy còn dư thời gian ông ta làm gi ! ông ta đi học. sau một thời gian dài học hành có một người bạn rủ lên kinh ứng thí. ông ta không đi, ông nói số tôi như vậy có thi nủa cũng thế thôi nhưng bạn ông ta quyết tâm rủ đi cho vui và đăng ký thi cho ông ta vì ông ta học qua nhiếu đi. ông ta chỉ biết thi cho vui chứ không suy nghĩ dc gì và sau đó ông ta đỗ trạng thật bất ngờ. nổi giận lôi đình ông ta về quê và đi thẳng vào nhà tướng số. ông thầy bói biết trước nhìn mặc ông và nói "ông hãy soi gương đi rối vào nói chuyện". nốt rùi năm xưa màu đen giờ thành màu son là phú quý, do sự học hành quá lớn của ông đã thay đổi vận mạng.


    :128::128::128:
     
    Flower_of_summer thích bài này.
  15. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    CHUYỂN TƯỚNG XẤU THÀNH TỐT

    Tào Bân là vị đại tướng nổi tiếng triều Tống, giúp Tống Thái Tổ bình định thiên hạ, có công lao chinh chiến rất lớn. Có một lần, Tào Bân gặp Trần Hi Di là một người có học vấn rất uyên bác, giỏi xem tướng thuật. Ông này xem qua tướng mạo của Tào Bân rồi nói:
    – Hai bên thành xương của ông lồi lên, ấn đường rộng, mắt dài phóng ánh sáng, chắc chắn sớm trở nên giàu có, song có tướng xấu là quai hàm cao, miệng trệ, xem ra ông không được hưởng phước khi tuổi già. Cứ theo đây mà nói, mỗi khi xuất binh chinh chiến ông nên đối xử khoan hồng, gieo trồng phước đức cho lúc tuổi già.
    Tào Bân nghe Trần Hi Di nói liền cúi đầu cảm tạ, ghi nhớ lời ấy.
    Một lần, khi Tào Bân xuất trận, phó tướng Toại Ninh và rất nhiều tướng sĩ thuộc hạ đều chủ trương giết sạch dân trong thành để thị uy. Tào Bân biết được liền ra lệnh nghiêm cấm giết hại dân lành, cấm xâm hại phụ nữ hoặc cướp bóc tài sản của dân. Sau khi chiến sự kết thúc, ông còn cấp lương thực cho những người xa quê muốn trở về, dân chúng không ai không cảm tạ tấm lòng nhân đức của ông.
    Sau đó, Tào Bân nhận lệnh dẫn binh đánh GiangNam. Bởi không nỡ nhìn thấy cảnh dân tình khốn khổ lầm than vì chiến cuộc nên ông cáo bệnh không đi. Các võ tướng dưới quyền ông lúc đó đều kéo đến thăm hỏi bệnh tình của ông trước khi xuất chinh. Tào Bân nói với tất cả những người đến thăm bệnh:
    – Bệnh của tôi không thuốc gì chữa khỏi, nhưng chỉ cần tất cả anh em thành tâm thành ý cùng thề rằng ngày tiến công Giang Nam tuyệt đối không được tùy tiện giết hại dân lành, như thế thì bệnh của tôi sẽ tự nhiên thuyên giảm thôi.
    Các tướng sĩ vốn hết sức kính trọng Tào Bân, nên họ liền cùng nhau phát lời thệ nguyện đúng như vậy. Đến ngày đánh GiangNam, nhờ đó mà có vô số dân thường được thoát khỏi sự lạm sát. Tấm lòng từ bi của vị tướng quân họ Tào được truyền rộng khắp GiangNam, dân chúng ai nấy đều cảm kích. Vì thế, mọi người cùng rủ nhau mang lương thực đi đón quân triều đình. Sức chống cự của phản quân vì thế rất yếu ớt. Nhờ vậy mà trận chiến này không phải tốn hao nhiều nhân mạng, hơn nữa còn bảo vệ được tài sản của nhân dân không bị tàn phá.
    Sau đó ít lâu, Tào Bân có dịp tình cờ gặp lại Trần Hi Di. Ông ta nhìn tiên sinh một lúc rồi nói:
    – Lạ thật! Năm trước tôi xem tướng của ông thấy quai hàm cao miệng trệ, lúc đó tôi khẳng định ông không có phước về già, nhưng hiện tại đã biến đổi, miệng mép đầy đặn xinh đẹp, ánh kim quang thù diệu nhìn thấy khắp mặt và râu tóc, nhất định sẽ được sống lâu nhiều phước lộc.
    Tào Bân hỏi lại:
    – Sao gọi là kim quang?
    – Đó là ánh sáng hiển hiện của phước đức, nếu người có âm đức thì mặt hiện ánh sáng màu vàng y, mắt sáng, cả khuôn mặt đều tỏa ra khí sắc tốt lành. Người như vậy không chỉ tăng tuổi thọ, con cháu nhiều đời về sau cũng đều hưởng nhờ phước đức.
    Quả nhiên, về già Tào Bân sống trong cảnh an nhàn thư thái, lúc ra đi cũng hết sức nhẹ nhàng, thọ 69 tuổi, sau khi chết được truy phong tước hiệu Tể Dương quận vương. Tiên sinh có cả thảy 9 người con trai, con trưởng là Vĩ, con thứ là Tông, con thứ ba là Xán, đều là những tướng lãnh nổi tiếng; nhiều đời con cháu về sau đều vinh hiển không ai sánh.

    (trích Lịch Sử Cảm Ứng Thống Ký, Đức Dục Cổ Giám và Pháp Tướng Bí Truyện).
     
    khatcai and Flower_of_summer like this.
  16. Flower_of_summer

    Flower_of_summer Thần Tài Perennial member

    :tea:mai mần hoành tráng lại nàh anh ^^:140:
     
    khatcai thích bài này.
  17. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Flower_of_summer thích bài này.
  18. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    :126::126::126:

    Y chang Bờ Lách

     
    Flower_of_summer thích bài này.
  19. Flower_of_summer

    Flower_of_summer Thần Tài Perennial member

    :132:Ông phái kiếm chiện dí tui lắm nà :121::121::121::111::112::112::112:
     
  20. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Flower_of_summer thích bài này.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.