CAN CHI NGŨ HÀNH 2012

Thảo luận trong 'Phần Mềm Xổ Số - Phát Hiện - Phát Triển' bắt đầu bởi hiensalon, 13/12/11.

  1. ngubat

    ngubat Thần Tài

    :132:HÔM NAY LẦN ĐẦU TIÊN MÌNH THAM DỰ, XIN PHÉP DỰ ĐOÁN KẾT QUẢ LÀ X3 VÀ X2 CHO CẢ 3 MIỀN ĐẶC BIỆT TẬP TRUNG MẠNH CHO 52:wins:
     
  2. Em Trai Tay Do

    Em Trai Tay Do Thần Tài Perennial member

    :132: Anh Quang - Anh Hiền :132:
    Nhị vị sư ca ơi , sao chưa thấy bình luận gì cho hôm nay ?

    Theo tứ trụ hôm nay Em chọn :
    X2 ( Dần Ngọ Tuất )
    X8 ( Thân Tí Thìn )
    cho 2 đài : LA & HG
     
  3. thuchiend

    thuchiend Thần Tài Perennial member

    thân yếu.có sát.
    Cần ấn.hay nói cách khác.quan sát sinh vượng.
    Mạnh X9.lót X1
    :140:.
    Ví dụ đang không có người mang tiền đến cho mượn.trong lúc khó khăn .sắp đuối gặp được chiếc phao !
     
    Xin Đề, cauhenso, Lenovo and 7 others like this.
  4. sohapne

    sohapne Thần Tài Perennial member

    Luận dụng thần

    Dụng thần là thần (khí) mà Bát tự dùng được. Thông thường ngũ hành nhân mệnh lấy bình hành làm mừng, thái quá và bất cập đều là "bệnh", bệnh thì tất nhiên cần "dược"; dược chínnh là "dụng thần". Thân hàn ưa hỏa làm ấm thân, thân táo (nóng) ưa dụng thủy để nhuận; vượng tất nên tiết nên khắc, suy tất nên sinh nên trợ. Bát tự có dụng thần, đại vận gặp được nó như nắng hạn gặp mưa rào (khô miêu đắc vũ - mầm khô mà được mưa), bộc phát hưng thịnh, nhẹ bước đường mây (hồng mao ngộ phong - nhẹ như lông hồng mà còn được gió), ung dung mà có thành quả; Bát tự không có dụng thần hoặc đại vận không hành đất dụng thần, tất cuộc đời tẻ nhạt vô vị, chẳng có gì đặc sắc, hoặc có chí mà khó vung vẩy. Sát Thương Kiêu Nhận tuy là hung thần nhưng nếu dùng được đều có thể thành bậc kỳ tài sự nghiệp to lớn; Tài Quan Thực Ấn tuy là cát thần nhưng không dùng được lại thành hại mà vô ích, cho nên dụng thần là mấu chốt của bát tự, cũng là điểm nan giải trong bát tự, phượng phát luận dụng thần trong các sách có rất nhiều nhưng tóm lại chỉ có vài phép: một là Phù ức; hai là Điều hậu ; ba, Bệnh dược và bốn là Tòng thế.

    Tiết 1: Phù ức thủ dụng

    Ức phù là ức phù đối với nhật chủ, ức tức là khắc hao nhật chủ, phù tức sinh trợ nhật chủ. Nói thông thường như nhật chủ nhược cần Ấn thụ sinh phù cho ta, Tỉ kiếp cùng dạng như ta thì trợ cho ta; nhật chủ cường thì chọn lấy cái khắc ta là Quan sát để chế hoặc cái ta sinh là Thực thương để tiết. Lấy Quan sát làm dụng phải phối hợp với lấy Tài tinh, hoặc lấy Tài tinh làm dụng phải phối với lấy Thực thương. Phép thủ dụng Phù ức trước tiên cần phải biện rõ nhật chủ cường nhược.

    Thứ nhất, phán đoán nhật chủ cường nhược cần quan sát các điểm chính:

    1. Xem nhật chủ đắc lệnh hay không đắc lệnh. Quy luật suy vượng thập can ngũ hành tứ quý để phán đoán nhật chủ đắc lệnh hay không và mức độ cường nhược.

    2. Xem trong tứ trụ có hay không Tỉ kiếp trợ giúp thân, trong tứ trụ ngoài Tỉ kiếp thiên can ra, thì còn kể cả Tỉ kiếp tàng trong nhân nguyên địa chi niên nhật thời, nếu Tỉ kiếp nhiều thì khí thế nhật trụ vượng, gọi là nhật nguyên đắc thế; cũng là vượng nhưng Tỉ kiếp ít thì nhật nguyên bất đắc thế. Mức độ trợ thân của Tỉ kiếp ở Địa chi thông thường lớn hơn Thiên can; bản khí địa chi lớn hơn dư khí; sát nhật chủ (ảnh hưởng) lớn hơn xa nhật chủ.

    3. Xem trong tứ trụ có hay không có Ấn thụ phù thân, có Ấn thụ phù trợ có thể gia tăng khí thế vượng của nhật chủ. Trừ Thiên can ấn thụ ra thì còn có Ấn thụ đóng ở Địa chi niên , nhật , thời bản khí ấn thụ cũng có thể trợ thân. Lực sinh trợ của địa chi lớn hơn Thiên can, của ấn thụ sát nhật chủ lớn hơn ấn xa nhật chủ; nhưng phải chú ý địa chi chứa khí ấn thụ thì không thể phù trợ thân, như Hợi bản khí là thủy trong chứa Giáp mộc, mà Giáp mộc trong hợi thủy thì không thể sinh hỏa.

    4. Xem trong tứ trụ có hay không hợp cục, hội cục bang trợ nhật chủ. Hợp hội Tỉ kiếp cục và Ấn thụ cục cũng đều gia tăng thế của nhật chủ.

    Xem nhật nguyên cường nhược, căn cứ vào 4 điểm này mà quan sát tổng hợp phán đoán. Mức độ nhật chủ cường nhược có thể chia thành 5 cấp độ : cực cường, cường, trung bình, nhược và cực nhược. Dùng phép phù ức để chọn dụng thần thông thường chỉ là nhắm vào hai loại nhật chủ cường cấp và nhược cấp. Nhật chủ cực cường thì không thể khắc ức, khắc thì như địch phải kẻ mạnh tức thì tai ương đến. Nhật chủ cực nhược lại không thể sinh phù, sinh phù không những không cứu giúp tu bổ mà ngược lại làm bất hòa với thần khí khác. Nhật chủ không suy không vượng không cần phù ức thì theo phép khác để chọn dụng thần.

    Thứ hai, phép chọn dụng thần khi nhật chủ vượng:

    1. Nhật chủ vượng, như trong trụ Tài Quan ít, nhẹ nhưng có gốc có khí, nếu chọn tiết thần là Thực thương sẽ làm hại đến Quan tinh, đó là bởi vì Tài là nguồn dưỡng Mệnh, Quan là gốc lập thân, Bát tự có Quan sát thì dụng Quan sát, không thể bỏ gốc lấy ngọn. Nếu trong bát tự Tỉ kiếp vượng thì có thể dụng Quans át để khử Tỉ kiếp ức nhật chủ, đây là lấy Quan sát làm Dụng thần, Tài làm Hỷ thần. Nếu trong bát tự Ấn thụ vượng thì dùng Tài tinh khử Ấn thụ, ức Nhật chủ, đây là lấy Tài làm dụng và trợ giúp cho Quan sát; Nhật chủ vượng lại hành vận Tỉ Kiếp, vận Ấn thụ gọi là "Bối lộc, trục mã", là điềm tất phá bại, đổ nát.

    2. Nhật chủ vượng trong trụ Tài thần khinh, không thấy Quan Sát còn Tỉ Kiếp đầy trụ, dụng Quan thì kích động Tỉ Kiếp mà hại Quan, không bằng dụng Thương Thực để tiết đi thế vượng của Tỉ Kiếp mà lại có thể sinh Tài, trường hợp này nếu trong Bát tự Tỉ Kiếp vượng thì chọn Thương Thực làm Dụng thần, hỗ trợ cho Tài tinh; nếu trong Bát Tự Ấn thụ vượng thì lấy Tài làm Dụng thần, Thương Thực làm Hỉ Thần.

    Trong thực tiễn, phép chọn Dụng thần khi Nhật chủ vượng thông thường chỉ có hai phép, một là chọn Tài Quan làm dụng, hai là chọn Thương thực Tài làm dụng.

    1. Nhật chủ vượng, khi chọn Tài Quan làm dụng thần thì Tài Quan trong trụ cần phải hữu khí, Tài có thể sinh Quan, Quan có thể hộ Tài, Tài quan như một nhà chăm lo cho nhau; Nếu Bát Tự Ấn nhiều, hỷ dụng Tài mà không dụng Quan sát là vì Quan sát sinh Ấn làm Nhật chủ (đang vượng) càng vượng thêm; nếu Bát Tự Kiếp nhiều, hỉ dụng Quan sát và phụ thêm Tài vì Tài ít mà Kiếp nhiều sẽ bị họa tranh đoạt; nếu Bát Tự có Thương Quan tất hỷ Thực thương (với điều kiện) không thấy Quan tinh hoặc được Tài tinh hóa giải hoặc tàng trong chi không hiện; nếu Bát tự Tài nhiều Quan sát nhỏ thì hỷ dụng Quan sát; nếu Bát tự Sát tinh nhiều, Tài tinh nhỏ thì không nên dụng Tài vì Nhật chủ vượng có thể thắng được Tài nhưng lại không thể thắng được khắc chế của Quan sát, mà Tài lại trợ Sát làm hại thân. Tình huống này thì tùy theo đó mà dụng Ấn thụ hóa Sát hoặc chọn Thương Thực chế Sát. Đây là trường hợp Tài sinh Quan mà thành cách đa số là học giả có địa vị xã hội hoặc quan quý.


    2. Nhật chủ vượng, khi chọn Thương Thực Tài làm dụng, cần trong trụ không thấy Quan sát, nếu có Quan sát hoặc suy yếu vô lực hoặc ám tàng không hiện thì lại nên trong trụ cùng có Thương Thực và Tài tinh, tất Tỉ Kiếp bị Thương Thực hóa giải không đưa đến khắc Tài; Bát Tự Ấn nhiều, hỷ dụng Tài để phụ dụng Thực thương là vì Ấn nhiều tất khắc Thương Thực, dụng Tài có thể phá Ấn; Bát Tự Kiếp nhiều, hỷ dụng Thương Thực mà không cần Tài nhân vì Tài ít ắt gặp nhiều Kiếp tranh đoạt; Bát Tự Tài tinh nhiều, Thương Thực nhỏ thì hỷ dụng Thực thương; Bát Tự Thương Thực nhiều, Tài tinh nhỏ thì hỷ dụng Tài tinh. Loại trường hợp Thương Thực sinh Tài mà thành cách thì đa số là thương nhân, nhà kinh doanh giàu có.

    Thứ ba, phép chọn dụng thần khi nhật chủ nhược:

    Nhật chủ nhược có lẽ không ngoài 3 tình huống:

    1/ Nhật chủ nhược, trong trụ Tài tinh trùng trùng, Tài đa thân nhược, Thân không thể vượt thắng Tài;

    2/ Nhật chủ nhược, trong trụ Quan sát lẫn lộn, Sát trọng Thân khinh, thân không địch nổi sự khắc chế của Quan sát;

    3/ Nhật chủ nhược, trong trụ Thực Thương trùng điệp, thần tiết khí quá vượng thân tất hư nhược.

    Ba tình huống này, chỉ cần Nhật chủ có gốc có khí hoặc Tỉ kiếp bang trợ, hoặc Ấn chi viện thì có thể dùng Tỉ Kiếp Ấn thụ làm dụng thần phù trợ nhật chủ nhằm yên định. Nếu Nhật chủ cực suy, vô căn vô trợ thì không nên phù trợ, phù trợ không được mà còn sinh mầm mống tai họa.

    Thông thường thì người Tài đa Thân nhược hỷ dụng Tỉ Kiếp, phụ dụng Ấn thụ. Gặp trường hợp Sát trọng Thân khinh hỷ dụng Ấn thụ hóa giải, phụ dùng Tỉ Kiếp; Khí tiết thân quá vượng thì thích hợp dụng Tỉ Kiếp, cũng hợp dùng Ấn thụ, cả hai đều khả dụng song rất cần phân định rõ.

    Tóm lại, chọn Dụng thần khi nhật chủ nhược thì có khi dụng Tỉ Kiếp, có khi dụng Ấn thụ và có khi cả Tỉ Kiếp Ấn đều khả dụng.

    1. Bát tự Tài đa thân nhược, nếu có Tỉ Kiếp lộ ra thì tốt; có Ấn thụ thì Tài tinh không bị tổn thương; có Sát tinh thấu Ấn cũng hóa giải được; có Thực thương thì gặp được Ấn cũng khử được. Đó là mệnh tốt. Nếu có Sát tinh thấu xuất thì thành ra nghèo, có Quan sát đều thấu thì chết yểu rất xấu, có Quan thấu gặp Thương thì hèn, có Sát thấu gặp Thực thì bất chính, tóm lại, Tài đa Thân nhược không thấy Ấn kị thấu Thực, Thương, Sát, Quan vì như thế là cùng gặp khắc tiết quá mạnh, không tốt.

    2. Bát Tự Sát trọng thân khinh, hỷ gặp thuần túy Sát tinh hoặc thuần túy Quan tinh (Quan nhiều lấy Sát để luận), Ấn khinh mà sát bên Nhật chủ đó là mệnh tốt, có Sát thì không nên có Quan làm hỗn tạp, cũng vậy, có Quan thì không nên có Sát, có Tài không hợp Thương Ấn, Thương Thực không nên quá nặng. Sát trọng Thân khinh đa số hỷ dụng Ấn; song có khi dùng Thương Thực làm Dụng thần là vì Thương Quan có thể hợp Sát, Thực Thần có khả năng chế Sát thành ra cứu giúp Nhật chủ.

    3. Trong Bát tự mà thần khí tiết thân quá vượng, cần có Tỉ Kiếp giúp hoặc Ấn thụ sinh trợ, có Ấn thì không nên gặp Tài phá Ấn, vô Ấn thì không nên có Thương Thực hỗn Quan. Thực Thương đa tạp thì tinh chất tản mác, thần khí rối loạn, nên dụng Ấn để khử nó và bù cho sức sống của Nhật chủ. Thực hay Thương đơn độc thì tình ý có thể chuyên dụng được, nên dụng Kiếp để giúp đạt ước nguyện, còn tạp Ấn thì thành loạn. Kim thủy là tượng bao dung lẫn nhau, mộc hỏa là tượng kết hợp sáng đẹp, tất cả tình ý đó có thể chuyên dụng được, dụng Kiếp giúp cho đạt được hình tượng đó. Hỏa thổ táo trọc (hanh khô và hỗn loạn), dụng Ấn để khử đi điều đó; Thổ sinh kim, thủy sinh mộc để nở hoa, dụng Kiếp Ấn đều được. Nhưng mà tùy tình thế mà định : hữu Quan mà Thương Quan kiến Quan (hoặc Thực Thần khắc Sát) thì ưu tiên dụng Ấn; hữu Tài thì Tài tinh tổn Ấn thì ưu tiên dụng Kiếp, người học cần cẩn thận phân biệt.

    Tiết 2. ĐIỀU HẬU DỤNG THẦN

    Dùng điều hậu để lấy Dụng-thần là nội dung trọng yếu khi chọn Dụng-thần trong Bát-tự, nhưng giải thích trong rất nhiều sách đều không được rõ ràng. Đầu tiên cần định nghĩa lại điều hậu, kế tiếp chỉnh lại điều kiện sử dụng điều hậu.

    1. Điều hậu là phương pháp gặp lạnh lẽo thì làm cho ấm áp (hàn noãn), hanh khô thì làm ẩm mát (táo thấp) tức là áp dụng dựa theo mùa sinh, lấy tiết lệnh làm chủ, phối hợp tra khán với các Địa chi trong trụ. Nghĩa là chỉ có sanh mùa đông, hoặc sanh mùa hạ mới cần dùng hàn noãn điều hậu. Sanh tháng mùi, tuất lại gặp hỏa hoặc sanh tháng sửu, thìn lại gặp thủy mới dụng táo thấp điều hậu. Còn các trường hợp khác sanh mùa xuân, mùa thu thì không dùng điều hậu.

    2. Điều hậu chỉ áp dụng giới hạn một số Thiên-can mà không thích hợp cho tất cả Thiên-can. Giáp Ất mộc đối với thời tiết hàn noãn mẫn cảm nhất, cho nên thông thường Giáp Ất mộc là nhật chủ, hoặc làm Dụng-thần, Kỵ-thần lại sinh mùa đông hoặc mùa hạ đầu tiên cần cân nhắc điều hậu. Tiếp theo Canh Tân kim đối với hàn noãn, táo thấp cũng rất mẫn cảm. Mậu Kỷ thổ đối với điều hậu không mẫn cảm. Về phần Bính Đinh Nhâm Quý bản thân chúng đối với hàn noãn cũng không mẫn cảm, nhưng nó dựa vào mộc sinh (Bính Đinh) và dựa vào mộc tiết (Nhâm Quý), cho nên khi có mộc thì cần điều hậu, không mộc thì không cần điều hậu.

    3. Phương pháp điều hậu cần tách biệt cùng với dụng hỏa, dụng thủy, không thể nhập làm một được. Ví như tháng 3 là thìn, khi dụng hỏa thì thìn thổ hối hỏa (làm mờ hỏa) lại là thủy khố thì bất cát, nhưng nếu dụng điều hậu thì xuân tháng 3 ấm áp hoa nở khắp trời, dương khí bắt đầu phát triển, nên cát. Cũng có Bát-tự vừa dụng hỏa, cũng vừa dụng Noãn điều hậu; hoặc vừa dụng thủy, vừa dụng Hàn điều hậu; hoặc cũng có trường hợp dụng riêng lẻ một mình. Phải chú ý phân biệt phương pháp sử dụng từng loại một.

    Tiết 3. BỆNH DƯỢC THỦ DỤNG
    (Tuyển chọn Dụng thần theo phép Bệnh dược)

    "Bệnh dược" là thế nào? Bát tự có thần làm lụy đến mình nên gọi là "Bệnh", thần chữa bệnh (khử bệnh) được gọi là "Dược", tức là thuốc trị bệnh. Phương pháp "Bệnh dược" là sự tinh túy trong việc tuyển chọn Dụng thần, phép Phù ức và Điều hậu là một hình thức đặc thù của phép Bệnh dược. Thân vượng thì coi vượng là Bệnh, có thể dụng Quan sát để chế, dụng Tài tinh để làm hao bớt, dụng Thương Thực để tiết thân, tất cả đều là dùng "Dược" để trị "Bệnh". Thân nhược thì phải coi nhược là Bệnh, có thể dụng Ấn để sinh phù, dụng Kiếp để trợ giúp cũng đều là dùng "dược" để cứu giúp cho Thân. Bát tự thiên về hàn tất lấy hàn làm Bệnh, noãn tức là cái thần khí làm cho thân ấm lên là Dược, tương tự, Bát tự thiên về noãn, tức noãn là Bệnh, lúc này hàn lại là Dược. Bệnh dược còn nhiều hình thức khác, nhưng chung quy có thể phân làm ba loại:

    1. Trong Bát tự có thần quá thiên lệch về vượng (thiên vượng) mà thành Bệnh thần. Nhân mệnh tạo hóa quý ở trung hòa, vượng lệch về một phía tất phải chịu lụy. Như trong Bát tự thổ nhiều, Nhật chủ là Thủy thì Sát trọng thân khinh; nhật chủ là Kim thì thổ dày chôn kim; Nhật chủ là Hỏa thì bị che mất ánh sáng; Nhật chủ là Mộc thì thành Tài đa thân nhược; Nhật trụ Thổ thì Tỉ kiên quá nhiều. Đều là do thổ trọng mà thành bệnh, lúc này hỷ dụng Mộc làm thuốc trị bệnh, lấy thuốc làm Dụng thần. Lại như dụng Tài, gặp phải Tỉ Kiên quá nặng thành bệnh, mừng gặp được Quan sát làm thuốc; Dụng Thực thần Thương quan, Ấn trọng thành bệnh, mừng gặp được Tài làm thuốc; Dụng Quan sát, kiến Ấn thụ thái trọng thành bệnh, mừng gặp được Tài làm thuốc. Các tình huống này cần các thần khí thiên vượng không nên quá vượng, quá vượng tức bệnh quá nặng thì thuốc không đủ để trị bệnh, mà còn sợ rằng kích động vượng thần khắc ngược lại (phản khắc); lại cần thần khí đóng vai trò là thuốc không được vô khí, Dược thần vô khí thì bệnh cũng không thể khử được, có bệnh mà không có thuốc, là mệnh của kẻ hèn kém. Còn cách Tòng cường, Tòng vượng thì không thuộc loại này.

    * Bát tự đóng thành bầy đảng thiên vượng mà thành bệnh, dụng dược khử bệnh vẫn cần chú ý Nhật chủ. Thực Thương thái vượng, Thân nhược dụng Ấn có thể khử Thương quan và khả dĩ sinh trợ Nhật chủ; khi Ấn thụ quá vượng, Thân vượng dụng Tài có khả năng khử Ấn và cũng có thể hao khí nhật chủ. Song, khi Quan sát quá vượng (dùng Sát luận), Nhật chủ quá yếu, có Ấn thì phải chọn Ấn đầu tiên, nếu dụng Ấn bất thành mới dụng Thực thương để khử đi thế vượng của Quan sát. Thế nên mới nói dụng Ấn hóa Sát nhưng cần chú ý đến Nhật chủ và lợi dụng được sự hòa thuận của lục thần, còn nếu dụng Thực thương chế Sát tiết Nhật chủ chỉ tạo ra cảnh tranh đấu trong trụ. Học giả cần thông tỏ để nhận biết tường tận.

    2. Trong Bát tự có thần làm hại Hỷ thần, Dụng thần thì cũng có bệnh. Bát tự nếu lấy khí phù (trợ) làm Hỷ thì phải xem cái làm tổn hại khí đó là bệnh; hoặc lấy khí ức (chế) làm Hỷ thì phải xem cái làm tổn hại đến khí ức đó là bệnh. Giả sử như trong Mệnh Thân nhược dụng Ấn nhưng lại có Tài phá Ấn, tức Tài là Bệnh thần; thần khí hợp khử hoặc khắc khử đi Tài chính là thuốc; hay như trong Mệnh Thân vượng dụng Quan nhưng lại có Thương quan kiến Quan thì Thương quan chính là Bệnh thần, nếu có thần khí hợp khử hoặc khắc khử đi Thương quan chính là thuốc; hoặc trong Mệnh Thân vượng mà được Thực Thần tiết tú song lại tồn tại Kiêu thần đoạt Thực, tất Kiêu Ấn là bệnh thần, cần có thuốc là thần khí hợp khử hoặc khắc khử đi Kiêu Ấn. Trong trụ có Can chi xung khắc Hỷ thần mà thành bệnh, tức lấy hợp khử xung thần là thuốc trị bệnh, v.v... tình huống còn nhiều và rất đa dạng phong phú. Bệnh thần không nên kết đảng hội hợp, nếu không thì như người bệnh lâm vào tình trạng nguy kịch, nan y, thuốc vào cũng không khá hơn mà còn thành hại.

    * Trường hợp thương khắc Hỉ Thần Dụng thần mà thành bệnh, đa số đều là quý mệnh, đó là do Dụng thần bị tổn thương ví như ngựa khỏe bị thắng cương, chẳng phải là vô dụng mà chỉ là tạm thời thụ chế, khi bệnh thần bị khử đi thì ngựa lại có thể phi băng băng ngàn dặm. Ngược lại, nếu vô thương vô khắc thì tựa như ngựa hay mà không có dây cương, ngựa bất kham sao có thể hữu dụng. Cho nên cổ thư có câu ca: "Hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ, cách trung năng khử bệnh, tài lộc lưỡng tương tùy", mấu chốt ở chổ có bệnh đắc thuốc dụng thần có thể cứu ứng, Bát tự diệu dụng đều nằm ở chổ này.

    3. Bát Tự tồn tại thần hỗn cục tạp cách thành Bệnh thần. Bát tự thành cách hữu dụng thì nên thanh thuần không nên hỗn trọc, nên tinh túy không nên hỗn tạp, thế nên mới nói dụng Quan không nên hỗn Sát, hữu Sát tức thành bệnh; dụng Thực Thần không nên hỗn Thương Quan, xuất hiện Thương Quan liền thành bệnh, ngược lại cũng vậy. Lại có tượng kim thủy hiện ra (kim bạch thủy thanh), tất nhiên không nên có hỏa tạp lẫn vào, có hỏa tức có bệnh; mộc hỏa thông minh (mộc hỏa sáng rực) không nên hỗn kim, có kim cũng tức có bệnh; thủy mộc thuận sinh không nên thấy thổ làm nghịch chuyển trình tự đó, hữu thổ cũng là hữu bệnh; thổ kim tiết tú (nở hoa) không nên phùng mộc kháng kích, có mộc lẫn vào cũng là bệnh. Ngoài ra còn có thân cực vượng tòng cường thành cách, không nên tạp lẫn Tài Quan, có (Tài Quan) tức thành bệnh; Thân cực nhược tòng Tài Quan mà thành cách lại không nên tạp lẫn Tỉ Kiếp, có nó thì có bệnh; thêm nữa, Chánh quan cách Thân vượng dụng Tài, Thân nhược dụng Ấn, tạp lẫn vào Thương thực thì thành bệnh; Thương quan sinh Tài cách, Thân vượng dụng Tài, Thân nhược dụng Kiếp, có lẫn Quan sát vào thành bệnh, v.v...và còn nhiều nữa. Có bệnh do hỗn cục và tạp cách có thể xung, khắc, hợp, hóa nó đi. Nói thông thường là bệnh thần tại Thiên can thì dùng hợp để khử đi; bệnh tại Địa chi thì dùng xung khắc để khử.

    * Trường hợp hỗn cục tạp cách, vốn là kỵ thần của cách cục, ví như tỳ vết của viên ngọc quý, loang lỗ bề ngoài trông không đẹp, thành thử mệnh có Bệnh là mệnh hiếm có, quý cách. Nếu trong mệnh tự có thể khử được thì mới cho là mệnh tốt; còn nếu mệnh không thể tự khử được thì tại vận khử đi, vận đó sẽ khá, song qua vận đó bệnh lại tiếp tục làm hại; nếu mệnh và vận đều chẳng thể khử bệnh thì thành hỗn cục phá cách, cách cục bất thành chuyển sang mệnh bình thường hoặc mệnh bần tiện.

    Tiết 4. TÒNG THẾ THỦ DỤNG

    Ngũ hành Bát tự vốn hỷ trung hòa, cân đối. Thông thường thì vượng thì nên tiết nên thương, suy thì hỷ bang hỷ trợ. Song, trong trụ có thần khí cực vượng liền chuyển thành chuyên vượng thì không thể chịu khắc, khi khắc tổn sẽ kích khởi vượng thần, chẳng những vô ích mà ngược lại còn có hại. Cho nên trong mệnh có thần khí chuyên vượng thì chỉ nên thuận theo cường thế, hoặc sinh trợ hoặc tiết khí, không được khắc hao. Phép tòng thế phân thành hai loại:

    1, Nhật chủ quá vượng mà Tài Sát vô khí, kiến Tài Sát phản thành Bệnh thần, chỉ có thể thuận theo thế vượng của Nhật chủ, Dụng thần có thể là Ấn thụ, Tỉ Kiếp và Thương Thực, nhưng tùy tình hình mà sử dụng sẽ khác.

    Trích Thiên Tủy: "Ngũ hành suy vượng hữu điên đảo chi lý, mộc thái vượng nhi tự kim, hỷ hỏa chi luyện dã; mộc cực vượng nhi tự hỏa, hỷ thủy chi khắc dã". (Ngũ hành suy vượng mang lý lẽ điên đảo, mộc thái vượng tựa như kim, hỷ hỏa luyện; mộc cực vượng tựa như hỏa, ưa thủy khắc). Cho nên Nhật chủ thái vượng thì hỷ Thương Thực tiết bớt, Nhật chủ cực vượng thì thích được Ấn thụ sinh cho.

    - Nhật chủ vượng mà thấu tiết thần (thần tiết khí), trong cục Ấn khinh lại không thể khắc tiết thần thì gọi là nhật chủ thái vượng, khi đó hỷ tiết không hỷ sinh, và cũng hỷ Tỉ Kiếp;

    - Nhật chủ vượng mà vô tiết thần, trong trụ nhiều thần khí sinh trợ, gọi là nhật chủ cực vượng, thích được sinh mà không thích tiết, Tỉ Kiếp cũng thích hợp;

    - Ngoài ra còn có Ấn thụ vượng mà vô Thương Thực, lại vô Tài tinh chế Ấn, gọi là mẫu tử tình y (tình mẫu tử gắn bó, nương tựa nhau), hỷ Tỉ Kiếp mà không thích bị tiết khí, Ấn thụ khả dụng.

    - Nhưng cũng có mệnh vừa hỷ sinh vừa thích tiết và cả hỷ Tỉ Kiếp, gọi là Tỉ Kiếp chuyên quyền, hữu Ấn thụ thì đều quy về Tỉ Kiếp, sinh thì không được thương tiết, tiết thì không thể có Ấn.

    Tóm lại: Nhật chủ vượng để thành tòng vượng cách, đầu tiên kỵ hỗn Tài Quan Sát, nếu tạp Tài hội hay hợp với cường thần thì không kỵ, hoặc tạp Quan tạp Sát bị Ấn thụ tiết tận cũng không kỵ; kế đến là kỵ dụng Thương Thực mà bị Ấn tinh khắc phá, Thương Thực và Ấn thụ không gặp nhau thì được. Vượng cách đã thành, thần khí sở dụng có thể là sinh, hoặc tiết, hoặc bang trợ vượng khí. Như trong trụ Tỉ Kiếp đông đảo, gặp Thương Thực thì gọi là "anh hoa phát tú" (hoa đẹp đang nở), cần nguyên cục vô Ấn mới tránh được phản khắc làm hại thì danh lợi mới thành toại; kiến Ấn thụ mà trong cục vô Thương Thực, gọi là "sinh trợ cường thần" cũng chủ vẻ vang thuận lợi; kiến Tài tinh tất bị đoàn Tỉ tranh đoạt cần có Thương Thực tòng trung dẫn hóa mới tránh được tai ương; kiến Quan sát, gọi là phạm vượng, hung họa khó tránh khỏi.

    2, Nhật chủ cô lập vô khí, Tứ trụ không có ý hướng sinh phù mà dù có sinh phù cũng bị thần khí khác khắc phá, Nhật chủ chỉ có thể tòng theo vượng khí, cần xem xét vượng khí quy về thần nào, nếu Tứ trụ Tài Quan (Sát) đều vượng, không thấy Thương Thực, thế tất ở Quan (Sát), cho dù có Thương Thực cũng có thể được Tài tinh hóa hợp để không tranh đấu với Quan (Sát), khi đó thành cách Tòng Quan, Tòng Sát, hỷ hành Tài vận và Quan (Sát) vận; nếu tứ trụ Thương Thực Tài tinh cùng vượng không thấy Quan Sát, thế ắt hẳn do Tài, cho dù hữu Quan Sát cũng có thể hợp hội thành vượng thần để không tạp loạn thì có thể thành cách Tòng Tài hoặc Tòng Nhi, hỷ hành Thương Thực vận và Tài vận. Tòng cách đều kỵ hành Tỉ Kiếp Ấn thụ vận.

    Tóm lại:
    Nhật chủ suy yếu mà tòng theo cường thần, chỉ có hai loại, hoặc là Tòng Tài Quan (Sát), hoặc Tòng Thương Thực Tài. Tòng Quan (Sát) cần dụng Tài để phụ trợ; Tòng Tài cần dụng Thương Thực lấy hóa Kiếp; Tòng Thương Thực lại cần phải có Tài tinh để lưu thông.

    Nhưng Tòng cách lại phân ra cao thấp: Tòng Quan thuần không nên hỗn Sát, Tòng Sát thanh lại không nên hỗn Quan, dễ thành Quan sát hỗn tạp, khi ấy Nhật chủ đang tòng liền vô định hướng, coi như tổn hại quý cách; Tòng Tài cách tuy chẳng phân biệt thiên chính (Tài) nhưng cần Thực Thương nở hoa (tiết tú), chẳng những công danh hiển đạt mà còn cả đời chẳng có tai họa lớn, do Tòng Tài tối kỵ Tỉ Kiếp vận, trong trụ hữu Thương Thực năng hóa Tỉ Kiếp (nếu có) để sinh Tài thì cũng tốt đẹp; Tòng Nhi cách cần Thương Thực sinh Tài, lại cần hành Tài vận, không gặp Tài vận thì không phú quý, mà khi được tú khí lưu hành, người tất thông minh xuất chúng, học vấn tinh thâm.

    Giả như Nhật chủ suy nhược, Thương Thực, Tài tinh, Quan Sát đều vượng, Nhật chủ tòng theo thần nào? Đây tất dụng Tài để được hòa thuận, dẫn thông khí Thương Thực, trợ Quan sát, nhằm chuyển thành Thương Thực sinh Tài, Tài sinh Quan sát, vượng khí quy về Quan sát. Chỉ cần Thương Thực và Quan sát không tranh đấu với nhau thì cũng có thể thành quý cách. Tối kỵ Nhật chủ suy nhược mà có phù trợ, mong tòng mà không thể tòng, mà thần khí phù trợ lại không đủ lực phù không nổi, không có đường để đi thì thân lâm tuyệt cảnh, đây ắt hẳn sống mà như phế nhân. Tòng và bất tòng, quý hay tiện đều theo đó mà ra, người học cần cố gắng nhận thức rõ.
     
    Chỉnh sửa cuối: 25/2/12
    Xin Đề, Lenovo, nui69 and 11 others like this.
  5. mua nhà trên đê

    mua nhà trên đê Thần Tài

    Em đang trong giai đoạn nghiên cứu về tứ trụ ,em mong các sư huynh sư tỷ chỉ giáo thêm!:077::077::111::111:
     
  6. Lúa ngon đẹp

    Lúa ngon đẹp Thần Tài

    Tài liệu của SOHAPNE đưa :hay.Cám ơn SOHAPNE.
     
  7. Q_PY400

    Q_PY400 Thần Tài Perennial member

    anh ko chơi MN nhưng anh nghỉ MN x5 và x8
    TPHCM X8 mạnh x5 nhẹ ,ghép mạnh số lẻ nhẹ số chẳn
     
  8. sohapne

    sohapne Thần Tài Perennial member

    * Giờ Bính Thân, ngày Bính Thìn, tháng Quý Mão, năm Nhâm Thìn
    + Ngũ hành: Thổ, Quẻ: Kim

    + Bính Thân: Hỏa, Bính Thìn: Thổ, Quý Mão: Kim, Nhâm Thìn: Thủy
    + Mùa Xuân Hành Mộc
    + Thân: Tử, Mão: Ts, Thìn: D
    (Lệnh Tháng)
    * Xét tứ trụ:
    + Hành Hỏa: Thủy Hỏa Thổ -> Hỏa Thủy
    + Hành Thủy: Mộc Kim Thủy -> Mộc
    Kết:
    Mộc-Thủy(09 69 10 70) Mộc-Hỏa(50)
    LA-HG: A 69 70
    * Nhâm Thìn/Quý Mão/Bính Thìn/Bính Thân:
    Mện nj Bính(Hỏa) sinh vào tháng 2 được ần phù lại có tỉ kiếp bổ trợ nên vượng. Nhưng trong trụ có Quan Sát khắc mạnh làm thân trở bênh, may thay nguyệt lệnh Thìn(Thổ) khắc chế quan sát làm thân bệnh có thuốc chữa. Bát tự Sát tinh nhiều, Tài tinh nhỏ thì không nên dụng Tài vì Nhật chủ vượng có thể thắng được Tài nhưng lại không thể thắng được khắc chế của Quan sát, mà Tài lại trợ Sát làm hại thân. Tình huống này thì tùy theo đó mà dụng Ấn thụ hóa Sát hoặc chọn Thương Thực chế Sát.
    [FONT=&quot]:140:
    [/FONT]
     
  9. thuchiend

    thuchiend Thần Tài Perennial member

    trùng ý rồi hen huynh !
    Nhưng còn sát chuyên tấn công kẻ khác !
    :140::140:
     
    phucloc, Nguyễn, blackrose and 7 others like this.
  10. Q_PY400

    Q_PY400 Thần Tài Perennial member

    hôm nay mượn số 10 gởi đánh lô độc thủ MN
    70 độc thủ MT
     
    sohapne, phucloc, Nguyễn and 12 others like this.
  11. Lenovo

    Lenovo Thần Tài Perennial member

    EM CŨNG VẬY ĐÓ ANH CHỈ TP EM MẠNH x8,x5 x9: KÉO 4 CON TÀI THÔI :D
     
  12. ruagialamson

    ruagialamson Thần Tài Perennial member

    Huynh đệ mình trùng ý mộc-hỏa, nhưng huynh chọn nguyên bộ mộc-hỏa.:140:
     
  13. omi

    omi Thần Tài Perennial member

    híc! tứ trụ ko có tài.ấn vậy dụng nó là thượng sách rùi
     
    Xin Đề, sohapne, phucloc and 6 others like this.
  14. omi

    omi Thần Tài Perennial member

    :140:có luôn cả tài lẫn ấn! mà tài lớn mới ghê chứ:140:
     
    Nguyễn, Xin Đề, sohapne and 3 others like this.
  15. Lenovo

    Lenovo Thần Tài Perennial member

    MT nó đoạt tài ngay Canh Tuất luôn. Lạ ở chỗ sao lại sinh trong Tam Hạp X8 Bính Tý :132: pó chim :D
    Mậu nó khắc ra Nhâm/Quý
     
    Chỉnh sửa cuối: 25/2/12
  16. phucloc

    phucloc Thần Tài Perennial member

    Mấy sư huynh hôm nay không ai luận MB hết Bác rùa -anh hiền -anh quang-thục hiền-omi-sohap luận MB cho mình tham khảo với Cám ơn nhiều!
     
    Xin Đề thích bài này.
  17. Lenovo

    Lenovo Thần Tài Perennial member

    tham khảo

    MB còn lại : 77 35 24 và X0 -X9 - x1​
     
  18. sohapne

    sohapne Thần Tài Perennial member

    :140::140::140:
     
    Nguyễn, Xin Đề and poker1232000 like this.
  19. Q_PY400

    Q_PY400 Thần Tài Perennial member

    mb AB x5 55 75 95
    x0 50 60
    x8 88 18 78
    song thủ
    04 60
    đá vòng
    04 60 55 72
     
    Nguyễn, H_QNA22, Xin Đề and 7 others like this.
  20. Q_PY400

    Q_PY400 Thần Tài Perennial member

    2 con này ra hết MT
     
    Nguyễn, H_QNA22, Xin Đề and 3 others like this.