Cỏ mực chữa ung thư vòm họng

Thảo luận trong 'Các mặt hàng khác' bắt đầu bởi kieu11, 23/1/16.

  1. kieu11

    kieu11 Thần Tài

    Ung thư vòm họng có nhiều cách để chữa khỏi nhưng theo dân gian truyền lại thì loại cây có tên cỏ mực có thể chữa khỏi bệnh ung thư. Cùng đọc bài viết dưới đây để hiểu thêm nhé!
    Cây cỏ mực chữa bệnh ung thư vòm họng
    SKĐS - Cỏ mực có tên khoa học là Eclipta alba Hassk thuộc họ Cúc Asteraceae. Gọi là “mực” vì vò nát có nước chảy ra như mực đen.
    Đây là cây thuốc quen thuộc, chủ trị xuất huyết, nội tạng, viêm gan mạn...
    Mô tả cây
    Cỏ mực có tên khoa học là Eclipta alba Hassk thuộc họ Cúc Asteraceae. Gọi là “mực” do khi vò nát có nước chảy ra như mực đen. Gọi là “rau” do mầm non của nó cũng được dùng như một loại rau. Vì có màu đen nên cây rau này cũng được chú ý trong nhóm thức ăn, thuốc màu đen với nhiều triển vọng cho những công dụng quý như để chống lão hóa. Cỏ mực từ lâu có trong kho tàng Nam dược thần hiệu. Cây mọc hoang khắp nơi và ở đâu người ta cũng biết dùng để cầm máu. Thu hái từ tháng 2 đến tháng 8, phơi khô trong râm mát (âm can) bảo quản cẩn thận để dùng khi không có cây tươi. Cách dùng đơn giản tươi hay khô và không phải bào chế gì cả. Theo kinh nghiệm dùng cây có hoa tốt hơn.
    Cỏ mực tính lạnh, vị ngọt chua, không độc. Có tác dụng lương huyết (mát huyết) chỉ huyết, thanh can nhiệt, dưỡng thận âm, làm đen râu tóc. Chủ trị xuất huyết nội tạng (chảy máu dạ dày, ỉa đái ra máu, thổ huyết do lao, rong kinh) chữa kiết lỵ, viêm gan mạn, chấn thương sưng tấy lở loét mẩn ngứa (uống trong, rửa ngoài). Thần nông bản thảo nói: “Là thuốc cầm máu nổi tiếng…”. Đường bản thảo nói: “Rau mặc chủ huyết lỵ, người bị chảy máu dữ dội. Dùng nó đắp và bôi nước lên đầu tóc sẽ mọc lại nhanh chóng”. Điền nam bản thảo nói: “Rau mặc làm chắc răng, đen tóc chữa khỏi 9 loại trĩ”. Bản kinh cách đây 2.000 năm nói: “Máu chảy không cầm đắp rau mặc cầm ngay”. Kỵ dùng khi có âm hư không có nhiệt, tỳ vị hư hàn, ỉa chảy. Ngày nay được dùng nhiều trong điều trị sốt xuất huyết muỗi truyền, ung thư (cancer) và nhiều bệnh khác.
    Thành phần hóa học trong cỏ mực có tinh dầu, tannin, chất đắng (glucozit caroten và ancaloit tên ecliptin có tài liệu nói là nicotin) 1959 Govindachari TR và CS chiết được từ cỏ mực chất wedelolacton là một cumarin lacton (trong cây sài đất cũng có chất này) 1972 K.K Bharagava tách được demetylwedelolacton và một flavonozit.
    Về tác dụng dược lý: Viện Dược liệu và bộ môn Dược lý Đại học Y Hà Nội (1961) đã nghiên cứu tác dụng cầm máu và độc tính của cỏ mực cho biết: nước sắc cỏ mực khô thí nghiệm trên khỉ thấy giảm thời gian Quick rõ rệt, có nghĩa rằng cỏ mực làm tăng tỉ lệ prorombin toàn phần. Cỏ mực cũng giống vitamin K chống lại tác dụng của dicumarin (thuốc chống đông). Đối với hiệu quả cầm máu ở tử cung là do 2 tác dụng tăng prothrombin đồng thời tăng trưởng lực tử cung, nén thành tử cung. Cỏ mực không gây giãn mạch, không hạ huyết áp, có thể gây sảy thai. Về độc tính thử trên chuột nhắt trắng với liều 5 - 80 lần liều vẫn quen dùng trên lâm sàng của Đông y, chưa thấy xuất hiện độc tính.
    Một số bài thuốc dùng cỏ mực cầm máu từ xưa
    Chảy máu mũi đêm ngày không dứt: cỏ mực giã nát đắp giữa mỏ ác và trên trán là khỏi (Nam dược thần hiệu).
    Chữa thổ huyết và chảy máu cam: dùng cỏ mực cả cành và lá tươi giã lấy nước, chế thêm nước tiểu (của nhi đồng thì tốt hơn) để uống.
    Ỉa ra máu: cỏ mực nướng trên miếng ngói sạch cho khô, tán bột. Mỗi lần dùng 2 chỉ (8g) với nước cơm (gia tàng kinh nghiêm phương).
    Đái ra máu: cỏ mực, mã đề 2 vị bằng nhau giã lấy nước ngày uống 3 chén lúc đói (Y học chân truyền). Cháo cỏ mực nấu cháo cỏ mực 100g với 3 lát gừng (cỏ mực lọc lấy 400ml nước nấu cháo).
    Trĩ ra máu: một nắm cỏ mực để nguyên rễ giã nhuyễn như bùn, cho vào 1 chén rượu nóng thành dịch đặc vừa uống trong, vừa đắp bã ngoài (Bảo thọ đường phương).
    Chảy máy dạ dày hành tá tràng: rau mặc 50g, bạch cập 25g, đại táo 4 quả, cam thảo 15g sắc uống, ngày 1 thang chia làm 2 lần.
    Vết đứt chém nhỏ chảy máu: một nắm cỏ mực sạch nhai vò hoặc giã nhuyễn đắp lên vết thương.