Truyện Ngắn và Thơ!

Discussion in 'Cà Phê - Trà Đá' started by Phúc Thịnh, Apr 19, 2012.

  1. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quà muộn[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyên Hương[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Căn nhà được quy giá trị ra vàng, ai ở lại thì đưa cho người kia một nửa. Xe, ti vi, tủ lạnh... tất cả đều chia đôi. Sự phân chia êm thấm và ai cũng sẵn sàng nhường cho người kia hơn một chút.
    Chỉ còn lại Thu và tôi. áo quần của hai chị em thường để chung một ngăn, bây giờ bề bộn đầy giường. Hai đứa tôi vừa xếp riêng quần áo của mỗi đứa ra, vừa lắng nghe ba mẹ nói với nhau về con cái. Nói qua nói lại cho đến chiều thì ba tôi không còn nhỏ nhẹ nữa, ông thẳng thừng:
    - Về tài sản thì bà muốn lấy thêm gì tùy ý. Nhưng về con cái thì tôi nuôi con Linh. Khỏi cần bàn cãi nữa.
    - Đành rằng tòa xử tôi một đứa, ông một đứa. Nhưng tôi muốn tụi nó có chị có em với nhau - Giọng mẹ năn nỉ.
    - Vậy, tôi muốn cả hai đứa, bà chịu không? tôi cũng muốn tụi nó có chị có em - Giọng ba thách thức.
    Im lặng một phút rồi mẹ nói, giọng cay đắng:
    - Có thật là ông muốn tụi nó có chị có em không?
    - Đủ rồi! Con Linh là con của tôi - Ba lớn tiếng.
    - Đồ khốn nạn! - Cả người mẹ run lên - Con Thu cũng là con của ông. Tôi nói đi nói lại điều này suốt bao năm nay, không phải vì tôi muốn chứng tỏ sự chung thủy của tôi đối với ông... - Mẹ cười khẩy - Ông không đáng có một người vợ chung thủy...
    - Đừng nói nhiều vô ích - Giọng ba lạnh ngắt.
    - Tôi nói để cho hai đứa con hiểu rằng tụi nó là chị em ruột thịt.
    - Đằng nào thì con Linh cũng ở với tôi.
    Mẹ đi đến giường chất đầy áo quần của hai đứa tôi. Bàn tay mẹ ấn trên vai tôi đau điếng:
    - Linh... Em Thu... yếu đuối hơn con nên em cần mẹ hơn. Con hiểu mẹ không?
    Tôi không hiểu được. Cảm giác kiêu hãnh thường ngày biến mất. Thường ngày tôi luôn được khen thông minh hơn, dễ thương hơn và học giỏi hơn Thụ Thường ngày tôi luôn kiêu hãnh, vì ai đến nhà cũng vuốt tóc nựng tôi và chẳng mấy ai hỏi han đến Thụ Và thường ngày, tôi cũng hay lấn át Thu nữa... Nhưng lúc này tôi chỉ thấy tội nó. Tôi không kịp suy nghĩ về những buổi chia tay đang diễn ra. Tôi nhìn đống quần áo đã phân đôi trên giường và chợt nhận ra bao nhiều quần áo đẹp đều là của tôi! áo quần để chung, nhưng có khi nào Thu mặc đâu. Toàn là tôi mặc và quen dần ai cũng coi đó là của tôi.
    Mẹ nhét áo quần của Thu vào valy và cúi hôn tôi:
    - Mẹ yêu cả hai đứa! Con hay nói rằng mẹ không thương con, nhưng không phải vậy đâu. Rồi con sẽ hiểu.

    Để hiểu được lời mẹ nói, tôi phải trải một thời gian dài. Suốt những năm tháng dài đó, tôi luôn nhớ đến hình ảnh đứa em gái xấu xí khờ khạo của tôi:
    - Chị Linh, con búp bê này chia làm sao? - Nó giơ tay định vặt cổ con búp bê.
    - Cho Thu luôn đó! - Tôi vội giựt con búp bê lại, nhép vào valy của mẹ, lần đầu tiên trong đời tôi nhường em mình. Và kể từ hôm đó, những con búp bê trong tủ kính chưng bày ở tiệm không còn hấp dẫn tôi nữa. Một điều gì đó đã vĩnh viễn qua đi.
    Hai năm đầu, tết nào mẹ cũng gửi thư và quà cho tôi. Con dấu ngoài phong bì cho biết mẹ Ở Nha Trang, nhưng không cho biết rõ địa chỉ. Đến năm sau, năm sau nữa... tôi không còn nhận được tin mẹ. Ba cười khẩy: - Chắc mẹ mày lấy chồng rồi! Tôi không nghĩ đến chuyện mẹ lấy chồng. Tôi chỉ nghĩ rằng mẹ không buồn nhớ đến tôi nữa. Ngày xa, mẹ cũng ít khi nựng nịu chiều chuộng tôi, mẹ thương em Thu hơn.
    Ba lấy vợ. Dì mới hai mới ba tuổi, lớn hơn tôi tám tuổi. Nhìn dì và tôi người ngoài dễ lầm là hai chị em. Dì không hoạnh họe tôi nh những bà dì ghẻ ngời ta hay nói. Mà thật ra dì không chú ý đến tôi thì đúng hơn. Sáng tám giờ dì thức dậy, chải đầu, thay quần áo rồi ăn sáng đến mời giờ, đi chợ, vậy là tới trạ Ngủ trưa dậy là đã ba giờ, dì tới tiệm gội đầu hoặc làm móng tay móng chân... rồi cơm chiều. Rồi tối coi tivi hoặc đi xem phim, nghe nhạc...
    Khi có bầu, da mặt bị nám một chút, dì khóc, không chịu vào bếp nấu ăn vì sợ nám nhiều hơn. Ba mua bếp điện về, dì than cái thai làm dì mệt. Vậy là ba thuê một bà già ngày ngày tới lo cơm giặt giũ.
    - Chứ còn con Linh làm gì? - Đó là câu nói đầu tiên của dì ám chỉ đến tôi sau một năm sống chung.
    - Để cho nó học hành! - Giọng ba như ra lệnh, dì im lặng ngaỵ Dường như dì hiểu được rằng ba rất cưng tôi và đặt hy vọng nơi tôi rất nhiều. Dì muốn gì thì muốn, trừ việc... gây sự với tôi.
    Chỉ tội nghiệp cho bà già giúp việc - Ba tôi vốn khó tính, dì không khó tính nhưng lại nhỏng nhảnh, còn tôi thì ngủng ngẳng với tất cả... Bà nấu món gì, hễ tôi khen ngon thì dì chê dở; bà làm gì, hễ được dì khen thì tôi lại chệ Ba tôi khi thì nghe theo dì, khi thì nghe theo tôi... và một ngày kia ông quát lên:
    - Từ nay về sau ai chê thì tự làm lấy...

    Dì sinh ra một đứa em gái giống em Thu như đúc. Bà gì giúp việc lắc đầu: - Đàn bà có thai mà chưng diện thì sinh con xấu xí vô duyên là đúng rồi. Chỉ tội nghiệp con bé...
    Ba tôi cau mặt mỗi khi nhìn thấy đứa nhỏ. Dì trút bỏ áo quần đẹp, thôi son phấn, cả ngày dì ôm con vào lòng nựng nịu mong cho nó biết cười. Nhưng mặc kệ tình thương lẫn nước mắt của dì, nó vẫn cứ nhìn quanh bằng đôi mắt lờ đờ và chẳng hề vui chút nào khi nghe tiếng lúc lắc của món đồ chơi - Sao anh chẳng bao giờ nựng con hết vậy? - Tôi nghe tiếng dì khóc hỏi ba tôi và tiếng giày ba tôi đi xa dần.
    Đứa bé đã kéo tôi đến gần dì. Đi học về, tôi thường vào phòng dì bồng bé lên. Tôi ca hát, vui đùa trêu chọc bé, cũng như dì, tôi thiết tha mong nghe tiếng nó cười. Dì vui hơn khi thấy tôi gần gũi bé Bi của dì, nhưng không bao giờ dì hiểu được rằng tôi đang nhìn thấy mẹ nơi dì và bé Bi là em Thu ngày xưa. Giờ thì tôi hiểu được câu cuối cùng mẹ nói" em Thu yếu đuối hơn con nền em cần mẹ hơn".

    Sau bao ngày tháng, giờ đây tôi bỗng nhớ mẹ và em Thu đến cồn cào. Tôi nhớ hồi đó tôi hay giành đồ chơi với Thu và nó chẳng biết làm gì hơn là khóc ử. Cuối năm học nào tôi cũng ôm về gói phần thưởng lớn nhất lớp và ba tôi hãnh diện chở tôi khắp nhà ngời quen. Mỗi lần ba nựng nịu hoặc mua quà cho tôi thì mẹ lại đưa em Thu đi loanh quanh trong xóm và mua cho em một món quà tương tự để rồi tôi giành luôn món quà đó bằng câu phụng phịu:
    - Mẹ ứ thương con. mẹ chỉ thương em Thu thôi.
    - Linh! Con là chị. Con phải nhường em. - Mẹ dàn hòa.
    Và đôi khi mẹ nói như năn nỉ tôi:
    - Khi nào đi chơi, con dắt em theo cho em biết này biết nọ với nghe con. Tôi lắc đầu nguây nguẩy:
    - Nó chậm chạp lù đù, dắt theo mệt lắm.
    Tôi chưa bao giờ quan tâm đến em Thu - Ba đã khiến tôi nhận ra điều này! Tôi ẵm bồng bé Bi, ru nó ngủ, may áo búp bê, mua đồ chơi cho nó. Tôi muốn làm thật nhiều cho bé để chuộc lại sự vô tâm đối với em Thụ Nhưng bé Bi là bé Bi, em Thu là em Thu và tôi bật khóc mỗi khi nhớ mẹ. Tôi lục mấy phong thư cũ, tìm địa chỉ của mẹ nhưng vô ích, con dấu ngoài phong bì với hai chữ Nha Trang lạnh lùng chẳng nói được gì hơn. Nha Trang trở thành một địa danh ám ảnh.

    Giấy báo tôi thi đậu khoa Đại Học Y Thành phố Hồ Chí Minh gởi về nha, ba mở tiệc mừng ngay ngày hôm sau. Tiếng cụng ly của khách khứa chúc mừng tương lai tôi vọng vào phòng khiến dì run vai lặng khóc. Tôi bồng bé Bi lên, bé nhìn tôi bằng đôi mắt lờ đờ rồi mệt mỏi ngả cổ trên vai tôi.
    - Mai mốt Linh đi học... Ở đây một mình... dì biết làm sao? - Dì nói nho nhỏ, thống khổ, tuyệt vọng, cô đơn. Dì già sọm như đã bốn mươi.
    Tôi cắn nghiêm môi lại. Mẹ cũng đã từng thấy khổ tuyệt vọng và cô đơn như vậy. Mà hồi đó, tôi còn quá nhỏ để biết chia sẻ.
    Tôi rời bữa tiệc mừng đi lang thang trên phố. Hàng cây hai bên đường rũ lá lặng im. Niềm kiêu hãnh trước sự quan tâm đặc biệt của ba dành cho tôi không còn nữa, điều gì đó đã nứt rạn, xót xa.
    - Con gái của ba, con muốn ba thưởng gì cho con? - ba hồ hởi khi tôi quay về sau bữa tiệc.
    - Con thích đi Nha Trang - Tôi đáp và mong ba hỏi "tại sao con muốn đi Nha Trang" để tôi nói với ba về nỗi ray rứt trong tôi, nhưng ba không thèm thắc mắc.

    Mặc đám bạn vui đùa trên bãi cát. Tôi đi lòng vòng khắp phố biển như một con điên. Tôi dáo dác nhòm ngó, nghểnh cổ xoay đầu nhìn quanh tựa như mẹ và em Thu vừa mới chia tay với tôi xong.
    Tôi đặc biệt chú ý đến những đứa bé trạc tuổi Thu ngày ra đi, những đứa bé rách rưới nhẫn nhục chìa cái mũ trước ngực và ngước mắt chờ đợi. “nếu bỗng nhiên một đứa bé ngửa mũ trước mặt tôi với nụ cười nhăn nhở đó là Thu thì sao?”. Câu hỏi kinh khủng lóe lên khiến tôi sựng người khiếp sợ. Mẹ sẽ không bao giờ để em Thu như vậy! Nhưng có thể là mẹ làm sao đó... mẹ chết chẳng hạn và chẳng còn ai trên đời này biết đến em tôi. Một con người sinh ra không lý trí thì có thể làm được gì ngoài việc ngửa mũ xin ăn? tôi thẫn thờ đi trên phố, lòng vừa mong gặp, vừa mong đừng gặp.
    Ngày cuối cùng ở Nha Trang, tôi đi quanh các cửa hàng tìm mua quà cho bé Bị “Có món quà nào thật hay khiến cho bé cười được không?”. Tôi lùng sục món quà trong trí tưởng tượng của mình một cách xét nét tỉ mỉ khiến đám bạn cùng đi kêu trời:
    - Sao mày khó tính như bà già vậy Linh?
    Cuối cùng tôi tìm mua được con thuyền bằng vỏ ốc gắn vào nhau. Những cái vỏ ốc nhiều màu lấp lánh dưới nắng mặt trời.
    - Cám ơn Linh đã mua quà cho bé Bi - Dì buồn bã nói. - Từ lâu rồi, dì cũng chẳng nhớ đến việc mua quà cho bé nữa.
    Dì đưa chiếc thuyền cho bé và ngay lập tức chiếc thuyền tuột khỏi đôi bàn tay lỏng lẻo của bé, rơi xuống nền xi măng khô khốc, vỏ ốc văng tung tóe.

    Thật là bất ngờ, tôi gặp mẹ ngay ngày đầu tiên đến trường Đại học. Trong phút giây, tôi và mẹ đứng lặng nhìn nhau. Mẹ già đi nhiều, tốc lốm đốm bạc. - Sao me... đứng ở đây? Tôi ấp úng hỏi một câu ngu ngơ.
    - Mẹ đợi con! - Giọng mẹ khàn khàn.
    - Sao me... không viết thư cho con?
    - Biết ba con lấy vợ nên mẹ thôi không gởi. Mẹ ngại ba nghĩ rằng mẹ quấy rầy hạnh phúc của ba con.
    - Mẹ ngại... ngại.. Mẹ không nhớ đến con thì có! - Tôi dằn dỗi, như ngày xưa mỗi lần mẹ mua quà cho em Thu.
    - Linh! - Mẹ dịu dàng gọi tên tôi - mẹ luôn hỏi thăm về con. Con có thấy là mẹ đang đứng đây không? từ khi biết con đậu trường này, ngày nào mẹ cũng đến đây đợi...
    Hai mẹ con mà phải đợi chừng đó năm tháng để gặp nhau ở một nơi xa lạ. Tôi gục đầu trên vai mẹ, bật khóc.
    - Con về Nha Trang tìm mẹ... mẹ ơi!
    - Hồi đó mẹ đưa em về Nha Trang với hy vọng khí hậu biển sẽ tốt hơn cho em con. Rồi nghe nói ở thành phố có nhiều bác sĩ giỏi nên mẹ đa em về đây. - Em Thu... sao rồi mẹ? - Tôi hồi hộp hỏi.
    - Em con mất rồi! - Nước mắt mẹ rơi trên tóc tôi - Em con không ý thức được nguy hiểm nên đút tay vào ổ điện.
    Đột nhiên tôi thấy nhẹ nhỏm, nỗi nhẹ nhõm tàn nhẫn, kỳ quặc và đau đớn. Mẹ nghẹn ngào:
    - Chết có lúc là giải thoát phải không con?
    Nỗi đau trong mắt mẹ khiến cổ tôi cứng lại.

    Tôi có thêm một đứa em trai, vì mẹ đã có chồng. Chồng của mẹ là một bác sĩ khoa tâm thần. Thật khó chịu khi biết mẹ có chồng. Việc mẹ có chồng khác hẳn việc ba có vợ! Không thể giải thích được vì sao lại như vậy.
    Tôi cố tạo một vẻ mặt vô tư khi gặp cậu bé. Nó có khuôn mặt tròn và sóng mũi thanh tú của mẹ. Rồi khi đối diện với ông bác sĩ, tôi nhận ra đôi mắt nó là bản sao của đôi mắt ông.
    Câu chào ngập ngừng trên môi, rồi tôi bật ra "Chào bác".
    Ông đáp lại câu chào của tôi bằng một nụ cười.
    Ông đưa mẹ và tôi ra mộ em Thụ. Ngôi mộ xây theo một kiểu là lạ, ngồ ngộ. Những viên đá hoa đủ màu đắp quanh mộ như những món đồ chơi bày ra bừa bãi. - Với dáng mộ này, bác mong em của cháu có được tuổi thơ ở thế giới bên kia - Ông nói bằng một giọng ấm áp, ân cần.
    Tôi hình dung một cuộc sống có ông, mẹ, em Thu và đứa em tôi mới gặp. Thật khó mà hình dung được cuộc sống đó ra sao. Tuy nhiên, tôi hiểu ông rất yêu mẹ tôi. Vì yêu mẹ nên ông đã tặng cho em tôi tuổi thơ, dẫu muộn màng. Cũng như tôi thân thiện với dì vì nhớ mẹ, và nựng nịu vỗ về bé Bi vì tình yêu muộn màng dành cho em Thu.
    Tôi chợt hiểu ra một điều cơ bản của cuộc sống. Những ai biết yêu thương sẽ sống đẹp hơn.
    [/FONT]
     
    Smod_03 likes this.
  2. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quà tặng[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lan Nhi[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]- Chị Hai, coi quà em tặng cô giáo ngày 20-11 đẹp không nè? - Nhỏ Út vô tư chìa gói quà khoe tôi. Nhưng rồi nó cụt hứng rụt vội gói quà về, chắc lưỡi:
    - Quên nữa, chị đâu có thấy đường.
    Má từ nhà dưới bước lên nạt khẽ:
    - Út, sao con nói với chị như vậy? Má đánh con bây giờ.
    Con nhỏ sợ hãi ôm gói quà chạy tuốt ra sau. Thấy tôi vẫn không nói gì, sợ tôi buồn, má ngồi xuống giường, đưa tay vuốt nhẹ tóc tôi một cách ân cần:
    - Con đừng buồn nhỏ Út tội nghiệp! Nó vô tư nên nói vậy thôi chứ không có ác ý gì cả.
    Má chợt lái sang chuyện khác:
    - Ơ mà này, năm nay con có định về thăm trường cũ không con? Ðã ba năm rồi con không về. Con Giang nhắc mẹ khuyên con mãi.
    Thấy tôi vẫn lặng im, mẹ chắc lưỡi:
    - Tội nghiệp, năm nào ngày 20-11 con nhỏ cũng lên rủ con, mà con thì... - Mẹ bỏ lưng câu nói.
    - Bởi vì con bị mù! - Tôi cay cú hét lên – Con không muốn bị người ta cười, con không chịu được ánh mắt xoi mói, châm chọc của người xung quanh, mẹ có biết không?
    Bao nhiêu uất nghẹn được dịp bung ra trong tiếng nấc. Mẹ kéo tôi ôm vào lòng vỗ về như một đứa con nít:
    - Nín đi con! Mẹ biết rằng con rất đau khổ. Nhưng con cũng đừng bi quan quá rồi tự chui rúc vào vỏ ốc một mình. Xung quanh mọi người ai cũng quan tâm đến con. Không ai cười cợt con đâu, trái lại ai cũng thương con hết đó.
    Tôi mỉm cười chua xót:
    - Vậy sao! Nhưng con mù thì làm sao biết được mọi người có cười cợt con hay không?
    - Thôi được, nếu con đã quyết định như vậy thì mẹ cũng không ép con làm gì. Bầy giờ con ngồi đây chơi, mẹ xuống ngó nồi cơm, có cần gì gọi mẹ nha con! - Mẹ hôn lên trán tôi rồi nhẹ bước xuống bếp.
    - Tôi thẫn thờ một lúc lâu. Xung quanh tôi im lắng lạ thường. Kể từ khi tai nạn xe cộ cướp đi đôi mắt của tôi tính đến nay đã ba năm. Từ một người có đôi mắt sáng yêu đời nay trở thành mù lòa tối tăm, tôi tuyệt vọng khinh khủng. Nhiều lúc muốn chết để giải thoát khỏi bóng đen tăm tối đang bao trùm, nhưng những lần ấy tôi lại nghĩ đến mẹ nên không dám.
    Nhẹ đưa tay vuốt đôi mắt mù loà, cho những giọt nước mắt ứ nghẹn trào xuống, tôi thầm nghĩ: “Không biết gương mặt của mình bây giờ thế nào? Chắc xấu xí lắm thì phải? Cũng đúng thôi, con bé ngày xưa nhí nhảnh hay soi gương làm điệu, giờ đầy đã trở thành kẻ mù thì cần gì soi gương để làm gì cơ chứ?” Nghĩ đến đó tôi thấy tâm hồn mình đang đông lại hoá đá...
    - Ðố mày tao là ai nè?
    - Mày đó hả Giang? Cần gì phải bịt mắt, tao có thấy đường như hồi xưa nữa đâu.
    - Xin lỗi, tao quên, đừng giận nha! Mà mày làm cái gì thần thờ, mặt mày ủ dột vậy, bộ khóc nữa à?
    - Ðâu có! – Tôi mỉm cười đưa tay quẹt vội những giọt nước mắt còn động ở bờ mi.
    Nhỏ Giang vẫn nhí nhảnh huyên thuyên hỏi:
    - Này cô nương, sao không ra ngoài chơi? Cứ ru rú trong phòng nghĩ vẩn vơ hoài. À, mà mày nhớ hôm nay là ngày gì không nè?
    Tôi chu mỏ nói:
    - Con quỉ! Nhớ chớ sao không mậy. Ngày 20-11, tức là ngày nhà Giáo Việt Nam chứ gì. Bộ mày tưởng tao đui là không biết gì hết hay sao?
    Con Giang vỗ tay khen, rồi ghé sát vào tai tôi hét:
    - Giỏi quá, đoán đúng y chóc hà! Sao? Năm nay cô nương có định về thăm trường cũ không? Cô chủ nhiệm và lũ bạn nhắc mày quá xá luôn! Ðặc biệt năm nay cả lớp có món quà đặt biệt dành cho mày đó, bắt buộc mày phải đi đó nha.
    Tôi ủ rủ nói:
    - Thôi mà! bộ mày không thấy tao mù hay sao?... Với lại đã ba năm rồi tao đâu có về trường, tao sợ... – Tôi lấp lửng.
    Con Giang nạt tôi:
    - Mày nữa! Sợ gì mà sợ? Ðó, như vậy rồi cứ mặc cảm mãi. Có ai khinh khi gì mày đâu nè! Ðứa nào dám cười mày tao cốc cho nó lủng đầu luôn. Bạn bè thầy cô mong mày mãi, bọn nó bắt đền tao vì không rủ mày tới dự lễ.
    Con Giang nắmtay tôi năn nỉ tiếp:
    - Thôi mà Hân! Năm nay đi với tao cho vui nha! Mày ừ đi mà.
    Tôi chợt thấy lòng mình như chùng xuống: “Chẳng lẽ mọi người ai cũng mong mình hay sao?” – Tôi phân vân ghê gớm, giữa một bên là nỗi nhớ ray rức về thầy cô, bạn bè còn một bên là nỗi tự ái nặng trĩu. Hai sự lựa chọn như đang đánh vật trong đầu. Tôi nhủ thầm: “Mình phải làm gì? Có nên đi hay không? Mà con Giang là bạn thân nhất của mình chắc nó không nói dối đâu...”
    - Thôi mà cô nương, đừng suy nghĩ nữa! Quyết định như vậy nha! – Con Giang hối thúc cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi.
    - Nhưng mà... – Tôi băn khoăn.
    - Không nhưng nhị gì hết, cứ quyết định như vậy đi.
    Tôi miễn cưỡng gật đầu. Nhỏ Giang mừng rỡ hét to:
    - Thành công rồi! - Nhỏ quay xuống bếp hét to – Bác gái ơi! Mau lên trang điểm cho nhỏ Hân để nó đi dự lễ nè bác!
    - Ðồ quỉ! Làm gì mà mày la hét om sòm, lại còn kêu trang điểm nữa, bộ mày tưởng tao đi thi hoa hậu chắc - Vừa nói tôi vừa đưa tay nhéo khiến nhỏ Giang la oai oái. Lòng tôi chợt lâng lâng niềm vui khôn tả, cộng với nỗi lo âu mơ hồ dâng lên ngập lòng.

    Nhỏ Giang dìu tôi bước vào lớp. Tôi sợ hãi líu ríu bíu chặt tay nó. Giang trấn an tôi:
    - Ðừng sợ! Có tao bên cạnh mày nè! Cứ bước tự nhiên nha - Vừa nói, nó vừa dắt tôi bước qua bậc cửa. Cả căn phòng im lặng chợt vỡ oà bởi tiếng vỗ tay và tiếng la:
    - A, con Giang và con Hân đến nè tụi bây ơi! – Rồi cả bọn ùa đến dìu tôi ngồi xuống chiếc ghế. Sau khi yên vị, tôi mới nghe tiếng cô giáo ấm áp vang lên (đã ba năm rồi tôi không được nghe tiếng của cô):
    - Hôm nay là ngày Nhà giáo Việt Nam, cô rất vui khi lớp 12A đã tụ họp đông đủ để mừng cho cô, đó là một món quà có ý nghĩa nhất đồng thời quý giá nhất. Ðặc biệt một người bạn dù bị thương tật vì tai nạn, nhưng vẫn đến chung vui với chúng ta bằng cả tấm lòng, đó là Hân. Vậy chúng ta hãy cùng nhau dành cho bạn ấy một tràng pháo tay khen thưởng – Cô vừa dứt lời, tiếng vỗ tay tràn ngập khắp lớp. Mọi người vây quanh và ríu rít hỏi thăm khiến tôi cảm động đến ứa nước mắt. Cô đặt tay lên vai tôi và nói:
    - Cả lớp có một món quà dành tặng cho em! - Vừa nói cô vừa đặt vào tay tôi một bó hoa lớn.
    Tôi ngạc nhiên:
    Nhưng mà em có thấy được bông hoa đâu? – Tôi buột miệng nói rồi im lặng vì xấu hổ.
    Cô đưa tay vuối nhẹ tóc tôi:
    - Em không cần nhìn, cứ đưa lên mũi ngửi là sẽ biết hoa gì thôi!
    - Tôi nhẹ nhàng đưa hoa lên ngang mũi. Một mùi hương thơm ngát nhè nhẹ toả ra. Tôi mỉm cười, lặng lẽ vuốt nhẹ cánh hoa trơn láng mát dịu, khe khẽ hỏi:
    - Hoa hồng phải không cô?
    - Ðúng rồi! Em giỏi lắm. Ðấy, thấy chưa, đâu cần em phải nhìn mới biết được. Mọi vật nhiều khi không cần nhận xét về hình dáng bên ngoài đâu em ạ, chỉ cần nhận thấy vẻ đẹp bên trong tâm hồn là đủ biết.
    Ôm bó hoa trong tay, tôi bật khóc trước lời nói êm đềm thân thương của cô. Những giọt nước mắt của tôi khiến cô lo lắng:
    - Ôi, cô xin lỗi! Cô làm Hân buồn phải không?
    - Ồ, không, không phải đâu cô – tôi lắp bắp, nắm lấy bàn tay ấm áp của cô áp vào má mình thổn thức – Em khóc vì xúc động trước tấm lòng yêu thương của cô và các bạn dành cho em. Mọi người tốt với em quá! Vậy mà... bấy lâu nay em cứ trốn tránh tất cả.
    - Hân đừng nói vậy! Ai cũng vậy thôi, vì tai nạn đó là cú sốc lớn trong đời của em mà. Nhưng bây giờ hẳn cô và các bạn ở đây đã yên tâm khi thấy em vượt qua thử thách ở chính bản thân mình để vươn lên trong cuộc sống.
    Tôi ôm bó hoa vào lòng vui vẻ nói to trước mọi người:
    - Hân xin cám ơn tất cả các bạn cũng như cô đã giành cho Hân những tình cảm tốt đẹp nhất. Ngày 20-11 năm nay là một ngày vui nhất trong đời Hân. Vì vậy Hân xin hát một bài để tặng tất cả mọi người.
    - Hoan hô! Hoan hô! - Mọi người reo lên tán thưởng.
    Tiếng hát của tôi vang lên theo nhịp tay bạn bè: “Em trồng giàn bông trước cửa nhà em, em trồng một cây cho cô giáo hiền...”
    Tiếng hát của tôi lúc này vang lên không còn lẻ loi và cô đơn nữa, mà nó đã bay cao hòa quyện với tiếng hát của bạn bè. Vừa hát tôi vừa chợt nghĩ về mẹ: “Nếu mẹ biết con gái mẹ thay đổi như vầy, chắc mẹ sẽ vui lắm”.
    [/FONT]
     
    Smod_03 likes this.
  3. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quán[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Phan Hách[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cũng lâu mới có dịp trở lại Hà Nội. Cuối thu. Ban đêm đi dọc hàng cây sữa, thấy mùi hương sực nức. Cuối phố này tôi có một địa chỉ quen...
    Mấy chục năm xưa, tôi là chú bé nhà quê ra thành phố vừa học vừa kiếm việc làm. Một buổi tối gió bấc đầu mùa, tôi co ro đi lang thang trong mùi hoa sữa. Những hàng ngô nướng đêm sáng lập loè. Gió vi vút mùi cà phê ở đâu toả ra ngoài ngào ngạt. Ngẩng lên, thấy tấm biển "Lá thu cà phê" rọi đèn mờ ấm cúng. Nhẩm tính trong túi còn đủ 5 hào, tôi quyết định bước vào.
    Quán nhỏ. Bàn ghế bằng trúc vàng sơ sài. Nhưng giật mình thấy trên vách treo mấy bức sơn dầu của một hoạ sĩ tài hoa tôi hằng ngưỡng mộ mà chưa biết mặt.
    - Bác sao có những thứ này - Tôi hỏi chủ quán.
    - Cậu cũng thích tranh à - Chủ quán, một người vẻ nho nhã, tóc hoa râm, mỉm cười.
    Tôi ngồi vừa ngắm tranh, vừa rung đùi tận hưởng từng ngụm cà phê thơm ngon. Phải công nhận cà phê của ông tuyệt thật. Vào thời kỳ đó, hình như cả thành phố chỉ có vài quán cà phê thì phải.
    Đang lim dim mơ màng để khói cà phê phả mờ trên mặt, thì chợt thấy một người vừa bước vào. Chủ quán và ông khẽ gật đầu chào nhau, vẻ quen thân từ lâu. Ông người dỏng cao, gương mặt buồn đẹp, xanh xao. Ngón tay thanh tú trắng muốt nâng ly cà phê, mắt trầm ngâm ông nhìn những chiếc lá vàng bị gió bứt ào ào rơi ngoài cửa sổ. Uống xong, đứng dậy, lặng lẽ đi ra. Không thấy trả tiền.
    Chủ quán nháy tôi.
    - Cậu biết ai đấy không? Tác giả của những bức tranh kia đấy đấy!
    Trời, tôi thảng thốt. Không ngờ vừa gặp được thần tượng của mình. Bất giác nhìn lên, một giây khắc như cảm nhận được tất cả sự huyền bí diệu kỳ của những bức tranh trên vách, mà lúc khác chắc không thể biết được.
    - Những bức tranh tuyệt đẹp này - Chủ quán nói - là tặng phẩm của ông ta cho tôi, để trả ơn những tách cà phê thơm ngon mà tôi đã đãi ông suốt bao năm qua...
    Lòng tôi rưng rưng. Vụt nhớ giai thoại Van Gốc vẽ lên gỗ mặt bàn quán trọ để trả nợ.
    - Hay có thể nói ngược lại - Giọng chủ quán thầm thì - Những tách cà phê thơm ngon trong những giây phút gió bấc đầu mùa như đêm nay, cùng sự cung kính đối với nghệ thuật của tôi, là để trả ơn những bức tranh tuyệt tác...
    Từ hôm ấy, tôi thường trở lại quán cà phê Lá thu mỗi khi trong túi tích cóp đủ 5 hào. Và tôi thường được ngắm nhìn người hoạ sĩ tài hoa trong khoảnh khắc ngắn ngủi của một ly cà phê bốc khói.
    Thoắt cái, mà những ngày ấy đã trở thành dĩ vãng xa xôi...
    ... Tôi hồi hộp dừng lại nơi cây sữa cuối cùng của dãy phố. Quán cà phê Lá Thu nhỏ bé, mái ngói rêu mốc đầy lá vàng ngày xưa không còn. Thay vào đấy là một quán bốn tầng sáng choang gương kính và ánh điện màu. Nhưng được cái là vẫn mang tên "Lá Thu cà phê".
    Tôi bước vào. Một mình một bàn. Một cô tiếp viên có đôi chân trần trắng muốt mũm mĩm mang chai rượu đắt tiền đến. Tôi hỏi tên người chủ quán cà phê ngày xưa. Cô dẫn tôi lên lầu. Một căn phòng nội thất phương Đông cổ. Cô dẫn tôi lên lầu. Một ông già râu tóc bạc đang ngồi uống trà bên giò lan tím cạnh song cửa. Đôi mắt sau tròng kính chớp chớp, ông nhận ra tôi, vồ vập thân tình.
    - Những bức tranh ngày xưa còn không, thưa ông - Tôi nhìn suốt lượt bức tường.
    - Không... Ông lắc đầu.
    - Chúng đâu rồi?
    - Chúng đã biến thành toà nhà nhiều gương kính này.
    - Ông có nghĩ thế là với sự biến đổi, ông đã gặp thời, gặp vận, may mắn không?
    - Không hẳn thế.
    Ông già đưa tôi chén trà ngâu thơm ngát. Tôi bâng khuâng chạnh nhớ mùi cà phê trong cái quán nghèo thuở nào.
    - Người hoạ sĩ tài hoa xưa còn đến đây?
    - Không. Ông ấy đã mất trước khi được thấy tranh của mình bán được nhiều tiền...
    Đêm ấy uống hết nửa chai rượu do cô tiếp viên xinh đẹp nâng tận môi, tôi loạng choạng đứng dậy ra về.
    Ông chủ quán tiễn ra cửa, cầm tay hỏi:
    - Tôi nghĩ là cậu buồn, và có giận tôi không?
    Tôi mơ hồ lắc đầu:
    - Không hẳn thế!
    [/FONT]
     
    Smod_03 likes this.
  4. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quan hệ[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phùng Nguyễn[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ain'' t missing you I ain'' t missing you I ain'' t missing you I can lie to myself ... John Waite *

    Vào một ngày cuối tháng Hai, mối quan hệ bị cắt đứt. Lỗi về phía người đàn ông, nhất định là như vậy. Trong quá trình quen biết nhau, gã đã bằng cách này hay cách khác nhiều lần đưa cả hai vào một tình thế rất khó khăn. Người đàn ông ngang bướng và thẳng thừng đến độ sỗ sàng; cách diễn đạt của gã thẳng băng như rìu bổ củi, ít khi nghe lọt lỗ tai. Người đàn bà luôn than phiền về tính khí ngang tàng của người đàn ông, và chỉ trong vòng ba tháng sau khi mối quan hệ được thiết lập, nàng đã giận gã chừng mươi lần. Tình hình xấu đến nỗi người đàn bà sẽ tức khắc lui vào vị trí phòng vệ mỗi khi gã bỗng tỏ ra dịu dàng với nàng. Ðến lượt phản ứng của nàng khiến người đàn ông càng lúc càng cảm thấy không nên để cho nàng nhìn thấy cái " phần mềm" của mình.

    Không thể nói là người đàn ông không cố tình làm như thế, nhưng không hẳn gã thực sự muốn như thế. Ngay từ buổi đầu của mối quan hệ không bình thường này, gã đã quyết định sẽ không nhượng bộ người đàn bà một chút nào hết. Trong khối óc ngu muội của gã, một người đàn bà độc thân xinh đẹp và thông minh như nàng nhất định đã nghe thừa mứa những lời khen tặng ý nhị, khôn khéo từ những người bạn khác phái hào hoa và lịch sự của mình. Tội gì phải đương đầu với sở trường của người khác, gã tự nhủ. Hơn nữa, không thể để những lời đường mật của đám đàn ông miệng trơn như bôi mỡ này tiếp tục làm hư hỏng nàng. Những lời lẽ du dương sẽ có lúc ngấm vào huyết quản và biến thành một phần không thể tách rời của khối chất lỏng màu đỏ nuôi dưỡng cơ thể nàng. Trên cơ sở lý luận nặng tính khoa học hiện đại này, gã biến những lần nói chuyện thành một cuộc trao đổi tư duy không có kết thúc, ở đó gã cãi cọ không mệt mỏi với người đàn bà về những điều có thể hoặc không có thể và nên hoặc không nên tranh luận. Và cảm thấy yên tâm, bởi vì gã có trách nhiệm mở ra cho nàng cánh cửa của một thế giới khác, trong đó không có điều không thể nói ra được, không có sự thực nào không thể chịu đựng được.

    Vậy mà như một phép lạ, quan hệ khó khăn, gập ghềnh của họ vẫn sống sót sau nhiều ngày tháng. Phải ghi nhận rằng phần lớn nhờ vào sự cố gắng đến từ phía người đàn bà. Nàng, với sự kiên nhẫn không thể giải thích được, chịu đựng nhiều lần những chỉ trích thẳng thừng, không kiêng dè từ người đàn ông ngang ngược, và chấp nhận những biệt hiệu không dễ thương chút nào do gã gán cho. Chưa ai dám gọi nàng là con gà nuốt dây thun, người đàn bà than thở. Tuy nhiên, có những biên giới ngôn ngữ mà nàng không cho phép gã vượt qua. Có lần người đàn ông than phiền nàng cho gã leo cây, không vào liên mạng nói chuyện với gã đúng như giờ giấc đã định. Phản ứng nghiêm khắc của nàng thực tình làm gã ngạc nhiên. Leo cây có thể gợi ra một hình ảnh xấu ư? Ngày còn nhỏ gã vẫn thường leo trèo như khỉ mà có thấy xấu gì đâu? Tất nhiên bị cho leo cây thì nhất định không phải là một điều hay ho gì lắm, gã thú nhận. Lần sau sẽ gọi là ... ôm cây đợi gà nuốt dây thun vậy, gã ngần ngừ thỏa hiệp, lòng buồn rầu nghĩ đến khả năng được leo cây thêm vài phen nữa! Ngoài ra, cứ phải thỏa hiệp mãi theo chiều hướng này, người đàn ông e rằng sẽ có lúc cái vốn ngữ vựng bao gồm phần lớn những từ ngữ bạt mạng của mình sẽ trở nên rỉ sét mất thôi. Cái viễn tượng sẽ biến thành một nhân vật lịch sự, nghiêm túc trong những ngày sắp tới khiến gã cảm thấy lo sợ quá đỗi. Gã đâm ra nghi ngờ là nàng cũng đang tự gán cho mình cái sứ mạng cứu vớt gã khỏi vũng bùn dung tục mà gã đang bì bõm một cách thoải mái trong đó.

    Ngoài việc hay sử dụng những từ ngữ không được " thanh nhã" cho lắm theo nhận xét của người đàn bà, người đàn ông thỉnh thoảng lại nói những câu động trời. Chỉ vài tháng sau ngày mối quan hệ siêu không gian được thiết lập, gã tuyên bố là có vẻ như không sớm thì muộn gã sẽ phải tỏ tình với nàng. Bởi vì càng ngày càng thấy ... có cảm tình với T. quá chừng đi thôi, gã thêm. Trời đất, chưa biết người ta ra làm sao đã có vẻ với lại sẽ phải nữa, người đàn bà phản đối kịch liệt. Người đàn ông cho rằng bên cạnh lòng hoài nghi về cung cách biểu lộ tình cảm vội vã rất đáng nghi ngờ, nàng còn tức giận vì sự không cả quyết trong cách diễn đạt của gã. Dù sao thì gã cũng cố gắng giải thích với nàng là người ta không cần thiết phải gặp mặt nhau mới có thể phát sinh tình cảm. Ðiều này đã xảy đến cho tôi, gã bảo người đàn bà. Và bởi vì chính gã chứ không phải ai khác là người có trách nhiệm mở ra cánh cửa của cái thế giới trong đó không có điều gì không thể nói được, gã tình nguyện khai hết với nàng về mối quan hệ của gã và K., trong đó mối tình một ngàn ngày đã bắt đầu một cách tình cờ trên cái chatroom đìu hiu của gã.

    Trong khi hăng say chứng minh cái luận đề " khả năng hiện thực của tình yêu trong môi trường siêu không gian," người đàn ông đã không tính đến những phản ứng của người đàn bà thông minh, nhạy cảm, và trên hết, rất đàn bà này. Nàng lắng nghe câu chuyện của gã một cách thích thú, và lập tức tuyên bố là thích K. quá đỗi. Nàng đòi xem ảnh K., và sau đó K. hầu như luôn có mặt trong những lần đối thoại giữa hai người. Vào một lúc nào đó, người đàn ông chợt nhận ra sự dại dột của mình. Anh sẽ không bao giờ quên một mối tình đẹp như vậy, và cả K. nữa, cho dù hai người có xa nhau mãi mãi. K. sẽ trở thành một chuẩn mực để anh đo đạc những người đến sau, người đàn bà kết luận. Thế này là thế nào? Cô ấy muốn nói gì? Gã chỉ muốn chứng minh quan hệ tình cảm có thể phát sinh trước khi người ta gặp mặt đối tượng, và trong cùng một lúc, với một chút tính toán, phô bày thái độ trung thực của mình thôi mà! Rõ ràng là nhận định của người đàn bà đã đưa người đàn ông vào một tình thế rất khó xử. Gã không thể và không cảm thấy cần thiết phải phủ nhận là mình sẽ thỉnh thoảng nghĩ đến K. Một phủ nhận như thế sẽ làm người đàn bà nghĩ về gã như là một người bội bạc hoặc dối trá. Trong cùng một lúc, K. và mối tình một ngàn ngày của cô chắc chắn sẽ được người đàn bà sử dụng như một chướng ngại vật để ngăn chặn gã đến gần nàng hơn về mặt tình cảm lẫn ... địa dư. Suy nghĩ này làm người đàn ông cảm thấy lúng túng. Mỗi khi lúng túng, gã lại tức giận. Người đàn bà, trong nhiều trường hợp, xem ra biết cách đưa gã vào một tình huống lúng túng, và còn có vẻ như thú vị lắm lắm về khả năng này.

    Trong một lần nói chuyện sau đó, người đàn bà hỏi người đàn ông điều gì đã vực gã dậy sau lần vấp ngã bởi một " mối tình lớn" như vậy. Câu hỏi làm gã ngạc nhiên, thực sự. Lẽ nào người đàn bà không biết điều này? Cô chứ còn ai nữa, gã đã muốn la lên như vậy trong ống nói điện thoại. Thay vì la lối, gã đề nghị người đàn bà đến nhìn vào tấm gương soi và tự tìm lấy câu trả lời. Gã hối hận ngay sau đó, không phải vì đã biểu lộ tình cảm mà chính vì vẻ cải lương của câu nói. Dù sao thì lời nói của gã cũng đã làm cho buổi nói chuyện khựng lại chừng ba mươi giây. Khi người đàn bà lên tiếng trở lại, những điều nàng nói ra sau đó không dính dáng gì đến việc bày tỏ tình cảm của gã. Nàng chỉ muốn lái câu chuyện về một hướng khác. Người đàn ông quen thuộc với phản ứng của người đàn bà trong những tình huống như thế này đến nỗi gã sau cùng gán thêm cho nàng một biệt danh mới, " cô chìm xuồng." Vào những lúc khác, khi người đàn bà phản ứng quyết liệt với mục đích giữ gã dừng lại ở một vị trí không làm nàng cảm thấy bất an, người đàn ông sẽ gọi nàng là " con nhím xù lông." Gã cho rằng đây là những phương pháp nàng vẫn sử dụng để đối phó với đám người ái mộ vần vũ chung quanh nàng như bầy ong. Một con tò vò ốm yếu như gã, lầng quầng ở nơi khỉ ho cò gáy cách nhà nàng những ba múi giờ thì có gì mà phải đề phòng như thế không biết!

    Tháng Hai là một tháng rắc rối. Vào một ngày trong tháng đó người ta có dịp gởi đến người mình muốn tán tỉnh những chậu hoa tươi kèm theo tấm thiệp với trái tim màu hồng. Tất nhiên là người đàn ông cũng muốn làm như thế, nhưng sau cùng gã bỏ cuộc khi khám phá ra có nhiều người khác cũng có cùng ý định như gã. Gã không quen tặng quà cho đàn bà, và không biết gì về bông hoa. Người đàn ông sống trong một căn phòng trơ trụi, những vật treo trên vách gồm có chiếc đồng hồ lớn chạy pin để xem giờ và một tấm lịch to bản để gã có thể nguệch ngoạc vào đó những điều cần ghi nhớ. Tội gì mà phải đương đầu với sở trường của người khác, gã tự trấn an. Vài hôm sau người đàn bà cho gã hay là mấy đóa hồng trong tấm thiệp điện tử gã tặng trông thực buồn cười. Chúng nở bung ra mỗi khi T. click lên chúng, nàng giải thích. Người đàn ông cảm thấy thú vị khi nghĩ đến số phận của những chậu hoa tươi đắt tiền. Không biết cái thùng rác sau nhà nàng có đủ chỗ chứa chúng hay không?

    Không có điều gì thú vị trong những tuần còn lại. Ðã bảo tháng Hai là tháng không ra gì, nhất là khi nó có đến hai mươi chín ngày! Người đàn ông đi xa cả tuần lễ, và khi về lại, ngoài mớ thư từ sách báo gã còn tìm thấy một gói quà vuông vắn từ địa chỉ của người đàn bà. Gã cảm thấy vui lắm. Người đàn bà đã bỏ thực nhiều công sức để tìm cho được " món quà mà T. tin chắc sẽ làm anh vui lắm," theo như lời nàng trong lần nói chuyện trước ngày gã đi xa. Và gã đã vui lắm cho đến khi nhìn tận mắt món quà. Gã nhận ra người đàn bà đã nói thực. Quả không dễ dàng để tìm cho ra một con kangaroo nơi nàng ở, cho dù bằng đất nung. Gã ngắm nghía bức tượng nhỏ và không tìm thấy một chút xíu nào của người đàn bà ở nó. Chỉ thấy K. và K. Có rất nhiều kangaroo nơi K. ở, người đàn bà biết như thế. Món quà thực ra chỉ là một lập lại của một nhận định nàng đã có trước đây. Anh sẽ không bao giờ quên được K. và mối tình một ngàn ngày của mình! Gã cảm thấy lúng túng, vô cùng lúng túng, bởi vì nếu quả thực đây là ý dịnh của nàng, người đàn bà đã thành công trong việc làm gã nhớ đến K. Mỗi khi lúng túng, người đàn ông lại tức giận một cách vô cớ. Trong bức điện thư cám ơn người đàn bà, gã nhắc đến những " toan tính nhọc nhằn" của nàng khi tìm mua cho bằng được món quà đầy ý nghĩa như vậy. Lá thư thiếu tế nhị của gã không những không giấu được nỗi bực dọc mà còn cóù vẻ như đã phủ nhận những thiện cảm người đàn bà đã dành cho gã dưới hình thức một món quà khó tìm. Ðiều này nhất định đã làm cho nàng vô cùng thất vọng. Trong thư trả lời, người đàn bà cho rằng cách tiếp nhận quà của người đàn ông khiến nàng có cảm giác của một anh lính mới tò te vừa cực nhọc vượt qua " đoạn đường chiến binh" gian khổ dài dằng dặc bị buộc phải làm lại từ đầu. Ðây là một so sánh thú vị, không hiểu người đàn bà lấy từ đâu ra. Có điều gã không cảm thấy thú vị và cũng không tin đi mua sắm lại có thể khổ sở đến như vậy. Những cửa hàng đủ loại trong khu thương mại gần nơi gã cư ngụ vẫn đông nghẹt những nữ khách xinh đẹp và nhiệt tình đó thôi! Ngay lúc đó, người đàn ông không biết rằng gã sẽ phải trả một cái giá thực đắt cho phản ứng quá quắt của mình.

    Thái độ không nhân nhượng của người đàn ông cộng thêm những tình cờ xui xẻo xảy đến sau đó làm quan hệ của hai người trở nên xấu đi nhanh chóng. Ngày đầu tiên của tuần lễ cuối tháng Hai không hứa hẹn điều gì tốt đẹp. Nguyên buổi sáng người đàn ông dành hết thì giờ để giải quyết những sự cố kỹ thuật do việc nâng cấp hệ thống điện toán của hãng. Buổi họp kéo dài ba tiếng đồng hồ tiếp theo đó làm gã mệt nhoài. Nhưng tệ hơn hết là bức điện thư của người đàn bà mà gã nhận được khi trở về lại bàn giấy của mình. Xem ra nàng đã chán ngấy thái độ gây hấn của người đàn ông. Nội dung lá thư là một bản phân tích tỉnh táo và lạnh lùng về con người gã, vốn đầy dẫy thói hư tật xấu, và " do đó, tình bạn chúng ta nên kết thúc ở đây." Ðây không phải là lần đầu tiên nàng đòi chấm dứt mối quan hệ đầy sóng gió này, nhưng những lần trước phần lớn là để ngăn chặn gã không vượt ra khỏi biên giới tình bạn quá xa. Luôn luôn có một khe hở nào đó nàng kín đáo chừa ra và bằng cách này hay cách khác người đàn ông đã xoay xở len vào để " tình bạn" của họ lại tiếp tục. Lần này có vẻ như không phải như vậy. Vĩnh biệt, nàng chấm dứt bức thư một cách quyết liệt. Vĩnh biệt ư? Làm thế nào người ta có thể chia tay khi chưa từng gặp nhau một lần nào trước đó? Tên bạn làm chung sở xui xẻo vừa bước vào chưa kịp mở miệng mè nheo hay than phiền hay khoe khoang một điều gì đó thì đã bị người đàn ông lạnh lẽo cắt ngang. " Biết rồi, khổ lắm! Nhưng không thể giúp mày được gì trong lúc này. Làm ơn đóng giùm tao cánh cửa khi đi ra nhé!" Gã kia cụt hứng quay ra, miệng làu bàu một câu không được tử tế cho lắm, và đóng sầm cánh cửa sau lưng mình. Cánh cửa đóng sẽ tránh giùm gã những quấy rầy không cần thiết vào lúc này. Nhưng đầu óc của gã không chịu làm việc gì hết. Nó tê điếng, bại xụi. Chỉ có cảm giác và cảm giác đang sôi sục trong lòng gã. Chúng tuôn ra ở những đầu ngón tay đang gõ ào ạt trên chiếc bàn phím máy vi tính. Bức thư trả lời viết ra trong cơn giận dữ đã như lời nguyền rủa oan nghiệt phong kín số phận mối quan hệ của hai người.

    Người đàn ông quay đầu xe, và đậu lại ở góc đường, nơi có tàng cây lớn. Buổi chiều tháng Sáu ở vùng này vẫn còn mát mẻ, không oi bức như nơi gã ở. Có một buổi họp mặt trong vòng bạn bè ở đây hôm nay, và người chủ nhà đã điện thoại cho gã vài hôm trước đó. Gã hướng về phía cánh cửa ra vào đang đóng im ỉm định bấm chuông, rồi đổi ý bước vào căn nhà chứa xe đang bỏ ngỏ. Băng qua dãy kệ chứa đầy những tờ tạp chí văn học, gã bước qua khung cửa nhỏ dẫn đến khu vườn bao bọc phía hậu của căn nhà. Những bụi cây trổ hoa vàng viền lối đi nhỏ dẫn đến khung cửa lớn bằng kính mở ra cái hiên rộng với chiếc giàn gỗ màu trắng từ đó những chậu hoa nhỏ đủ loại được treo lủng lẳng. Người đàn ông chợt khựng lại. Từ phía sau bụi cây leo không biết tên và lần kính của khung cửa lớn, gã nhìn thấy người đàn bà! Nàng, lần đầu tiên, bằng xương bằng thịt, và vô cùng quen thuộc. Chính là khuôn mặt này đã hiện ra trên màn ảnh máy vi tính mỗi buổi tối gã mở máy và nhìn ngắm gã với đôi mắt thực to phía dướí cặp lông mày cong như vành trăng khuyết. Gã đã gắn hình người đàn bà vào máy từ lâu, trước khi nàng quyết định chia tay, và cứ để vậy cho đến mãi bây giờ. Có một lúc gã gắn thêm bức hình nhỏ của mình cạnh ảnh người đàn bà, mầy mò thêm thắt vài thứ, và thỉnh thoảng lại click lên đó. Mỗi lần như vậy, khuôn mặt của gã trên màn hình sẽ biến dạng, cái miệng vêu lên, từ đó mọc ra hai hàm răng kệch cỡm đánh vào nhau cồm cộp, chẳng ăn nhịp gì với giọng nói ngây ngô của Forest Gump** phát ra từ cặp loa nhỏ. You don'' t know what love is! ... what love is ... what love is ... Nghe như niềm hoài nghi. Nghe như lời trách cứ. Tiếng nói chìm xuống và hàm răng thôi đánh vào nhau cồm cộp, trở lại kích thước bình thường, trả khuôn mặt gã về lại hình dáng cũ, nghĩa là trông rất khó ưa. Mới đầu hoạt cảnh này làm gã buồn cười đôi khi, về sau gã không còn cười được nữa. Gã lại mầy mò với tấm hình của mình một hồi lâu, và sau này mỗi khi gã click lên nó, khuôn mặt gã sẽ vỡ vụn ra từng mảnh nhỏ và tan biến vào màu xanh lơ của màn hình. Chỉ còn lại hai con mắt thực to dưới cặp lông mày cong như vành trăng khuyết nhìn gã, trách móc.

    Bây giờ thì chính cặp mắt đó đang hướng về phía cửa, nhưng nhất định nàng không nhìn thấy người đàn ông phía sau bụi cây leo. Nàng đang nói chuyện với người chủ nhà, lúc này ngồi ở chiếc ghế nệm dài xoay lưng lại phía cửa. Bên cạnh nàng là một người đàn ông dáng vẻ lịch sự mà gã đoán là bạn của nàng. Lẽ ra gã đã có thể ngồi ở vị trí của ông ta. Trước đây, hai người đã đề cập nhiều lần đến chuyến đi của người đàn bà. Gã đã dự tính những điều sẽ làm cùng nàng, những nơi chốn sẽ đưa nàng đến trong dịp hai người gặp nhau lầân đầu ở chính cái thành phố này. Và biết bao điều họ sẽ nói với nhau trong lần hội ngộ. Như về chiếc áo màu tím người đàn bà đang mặc mà gã tin rằng chính là chiếc áo nàng đã đề cập đến trong một bức điện thư lúc hai người còn vui vẻ với nhau. " Hôm nay T. mặc áo màu tím ai thấy cũng khen hết. Chỉ có anh không được nhìn thấy. Có nên tức một tí không?" Chính vào lúc gã đang phân vân không biết có nên tức tối hay không, nụ cười nở ra trên khuôn mặt người đàn bà. Nhất định là người chủ nhà vừa thốt ra một lời pha trò ý nhị. Nụ cười rất tươi, và bởi vì ở xa, người đàn ông không biết chắc ánh mắt có thực buồn như nàng đã tự mô tả cho gã ngày trước hay không.

    Có tiếng người xôn xao và tiếng chuông gọi cửa. Người đàn ông nhận ra tiếng nói của vợ chồng người bạn. Không thể để họ hay bất cứ ai khác biết gã đã đến đây hôm nay. Ánh mắt gã chần chừ trên khuôn mặt người đàn bà phía bên kia lần kính vài giây trước khi gã quay đi. Gã vòng lại lối cũ, xuyên qua khung cửa nhỏ và bước vào nhà chứa xe sau khi biết chắc cánh cửa ra vào đã khép lại. Ngón trỏ bàn tay trái của người đàn ông chạy ngang gáy sách của những tờ tạp chí bày thành hàng trên dãy kệ sách và dừng lại ở một số đã cũ. Chính là trong số này gã đã đọc nàng lần đầu tiên. Gã kéo tờ tạp chí ra khỏi kệ sách, cặp vào nách và bước ra chỗ đậu xe. Bàn tay ngần ngừ một chút trên nắm đấm, rồi cánh cửa xe bung ra nhanh và mạnh một cách không cần thiết. Em thà coi như hơi rượu cay***. Người đàn ông đã từ lâu không còn dùng rượu mạnh. Một chai bia thì không sao. Một chai Michelob ở chiếc bàn nhỏ cạnh cửa sổ của ngôi quán luôn luôn vắng khách. Và truyện của nàng làm bầu bạn. Nhất định là như vậy.

    Người đàn ông đến nơi này buổi chiều một ngày cuối tháng Mười Hai. Thành phố lạ hoắc lạ huơ. Gã đã phải ghé vào hai trạm xăng để hỏi đường trước khi đến được nơi muốn đến. Và đến trễ. Gã nhận lấy tờ chương trình từ tay cô gái ngồi ở chiếc bàn dài cạnh cửa ra vào, buông lời cám ơn, và bước hẳn vào hội trường. Những hàng ghế trong hội trường đều đã có người chiếm. Một số người đến trễ đứng dọc vách hoặc rề rà ở dãy bàn dài phủ khăn trắng trên bày đầy ắp những món thức uống và trái cây tươi. Gã chụp lấy một lon nước ngọt và tờ khăn giấy, tìm đến một góc khuất phía bên trái hội trường và đưa mắt tìm người đàn bà. Mắt gã dừng lại ở chiếc áo trắng và mái tóc chấm vai ở hàng ghế đầu. Trắng và đen là hai màu ưa thích của nàng. Gã không chắc là mình nhìn đúng người cho đến khi người đàn bà quay lại phía người bên cạnh để nói một điều gì đó. Nàng ngồi giữa hai người đàn ông. Gà nhận ra vẻ nghiêm túc của họ từ phía sau, tấm lưng thẳng đuột và cần cổ cứng nhắc trong bộ đồ lớn nói cho gã điều đó. Không riêng họ, tất cả mọi người ở đây hôm nay đều chải chuốt, lịch sự, và nghiêm túc. Trừ người đàn ông. Không cần nhìn vào gương soi gã cũng biết mình trông không khá gì hơn tấm giẻ rách. Gã ra phi trường từ lúc sáng sớm, lê lết chờ đợi trên những chiếc ghế cứng nhắc ở hai phi cảng khác nhau trước khi đến nơi. Lại thêm lần chờ đợi ở trạm mướn xe, và lần đi lạc. Gã luôn luôn lạc đường vào những lúc gấp gáp. Dù sao thì gã cũng đã đến đây và bởi vì không có hẹn hò gì với ai, gã đến trễ mà không bị phiền hà gì hết.

    Trên diễn đàn, diễn giả đang nói về một truyện ngắn của người đàn bà. Những nhận xét duyên dáng chen lẫn với những khen ngợi nồng nhiệt thỉnh thoảng gây ra những tràng cười hoặc vỗ tay tán thưởng của đám đông. Người đàn ông không cảm thấy hào hứng chút nào hết. Những nỗ lực của vị diễn giả trên kia không che lấp được những suy nghĩ rỗng tuếch, sáo mòn trong những lời xưng tụng vẫn thường nghe được ở các khung cảnh tương tự. Gã thất vọng, và cùng một lúc, cảm thấy thú vị. Xem ra cái đám đàn ông phong nhã này vẫn lì lợm một cách tuyệt vọng trong ý đồ làm hư hỏng nàng. Gã đã theo dõi hầu hết các truyện ngắn của nàng và cho rằng chúng xứng đáng nhiều hơn những lời hoa mỹ đang vang vang trên hệ thống âm thanh của hội trường. Mình có thể làm khá hơn nhiều, gã nghĩ và ngay lập tức cảm thấy buồn cười vì sự ngông cuồng của mình. Gã không thuộc về số người mà sự hiện diện sẽ được chờ đợi trong buổi ra mắt sách của người đàn bà. Ngay cả sự có mặt nhếch nhác của gã cũng đã là một điều không nên. Cũng may mà cái góc phòng nơi gã đứng tựa vào vách không có nhiều đèn đuốc cho lắm.

    Theo như chương trình, tác giả sẽ ký tên vào sách trong giờ nghỉ giải lao. Người đàn ông quyết định làm người khách cuối cùng của cái thủ tục không thể thiếu này. Trong khi chờ đợi, gã đi ra ngoài, tìm một chỗ khuất và mở cuốn sách thơm phức mùi giấy mới có tên của người đàn bà ra ngắm nghía. Gã không muốn suy nghĩ gì hết cho đến khi đối diện nàng. Có ít nhất hai mươi người trong hàng khi người đàn ông trở lại. Nhất định nàng đã vất vả ghê lắm. Gã nhìn thấy nàng qua vai người khách trước mặt, nụ cười thực tươi làm sáng lên khuôn mặt có đôi mắt thực to dưới hai hàng lông mày cong như vành trăng khuyết. Vẫn còn khá xa để người đàn ông có thể nhận ra ánh mắt người đàn bà quả thực có buồn thiu như nàng đã có lần bảo gã hay không. Có người đến sắp hàng sau lưng người đàn ông. Gã quay lại và đề nghị người khách cao lớn, lịch sự trong bộ đồ lớn màu xám tro thanh nhã và sực nức mùi nước hoa thế chỗ mình. Người khách quan sát vẻ ngoài xốc xếch của gã với vẻ thông cảm, ngỏ lời cám ơn và bước lên một bước. Bây giờ thì không còn ai phía sau. Gã sẽ là người khách cuối cùng nhận được chữ ký tác giả ngày hôm nay.

    Bây giờ thì hai người đang gần nhau, trong gang tấc, như người ta thường nói. Người đàn bà ngẩng lên nhìn gã. " Xin ông cho biết quý danh." Quý danh ư? Ðời nào! " Ồ, chỉ muốn xin cô chữ ký và ngày tháng thôi." Mắt người đàn bà chớp lên ba lần, nhất định có điều gì đó đang chạy qua những tế bào nằm sâu bên dưới vầng trán có hai hàng lông mày cong như vành trăng khuyết. Người đàn ông không tin nàng đã nhận ra gã. Tấm hình nhỏ xíu chụp đã lâu của người đàn ông là vật duy nhất để nàng có thể nhận diện gã. Không chắc nàng còn giữ. Còn giọng nói ư? Mười tháng trời đã trôi qua sau lần điện đàm cuối cùng và nàng đã nghe hàng trăm giọng nói ngày hôm nay. Ðưa tay nhận lại cuốn sách từ tay người đàn bà, gã nói lời cám ơn rồi quay lưng bỏ đi. " Xin lỗi. Có phải ông đến từ xa?" Gã dừng chân, ngần ngừ một chút rồi quay lại. " Ðiều gì đã khiến cô nghĩ như vậy?" Người đàn ông sẽ vô cùng ngạc nhiên nếu nàng không nhận ra gã là ai. Người đàn bà đã nhiều lần khốn đốn, nhiều lần giận hờn vì những câu hỏi đưa ra theo một cung cách sỗ sàng như thế. Ðôi mắt nàng chớp lên nhiều lần, và người đàn ông nghe nàng gọi tên mình. " Cám ơn anh đã đến. T. vui lắm." " Thực đó," nàng tiếp sau một vài giây, như để tự khẳng định. Rõ ràng là người đàn bà có xúc động, nhưng không ở mức độ mà người đàn ông đã mong muốn. " Không thấy một truyện tình nào trong tuyển tập của T.?" Gã hỏi. Người đàn bà im lặng. Nàng thừa thông minh để biết chờ đợi câu kế tiếp của gã. " T. nên viết một truyện tình ... có hậu. Chẳng hạn như người đàn bà sẽ bật khóc nức nở, tung hê hết mọi thứ kể cả cuốn sách đầu tay và đám độc giả ái mộ để đi theo người đàn ông đã vượt ngàn dặm đến quỳ bên nàng xin được tha thứ !" Tất nhiên gã không nghĩ một đoạn kết sặc mùi cải lương như thế có thể thực hiện được trong lúc này. Người đàn ông sẽ chờ người đàn bà ở bãi đậu xe và đưa nàng đến một quán cà phê nào đó. Ở đó gã sẽ xin lỗi nàng và cả hai sẽ tiếp tục câu chuyện dở dang gần một năm về trước. Một kết thúc như vậy xem ra hữu lý và có thể thực hiện được. Và gã thực sự mong được như vậy. Nhưng chính là nàng chứ không phải ai khác có thể quyết định số phận của câu chuyện. " T. không có ý định viết truyện tình nên không thể dùng được đoạn kết anh vừa đề nghị." Người đàn bà chấm dứt câu nói với nụ cười thực tươi làm sáng lên khuôn mặt có cặp mắt màu nâu thực to dưới đôi hàng lông mày cong như vành trăng khuyết. Bây giờ thì người đàn ông có cơ hội để biết chắc ánh mắt người đàn bà có buồn thiu như nàng đã từng mô tả hay không.

    Người đàn ông quay lưng hướng về phía bãi đậu xe. Gã quyết định sẽ đi thẳng ra phi cảng. Sẽ tìm được một chỗ trống trên chuyến bay trở về phía mặt trời lặn, gã nghĩ như vậy. Luôn luôn có một ai đó lỡ chuyến bay. Một người khách nào đó sẽ nấn ná ở lại cùng người yêu thêm vài tiếng đồng hồ. Gã chờ đợi một điều gì đó, một ý nghĩ buồn thảm chẳng hạn, sẽ đến với gã. Gã đưa những bước chân nhẹ tênh về phía trước. Bỗng dưng người đàn ông nhớ đến cái cảm giác kỳ lạ gã trải qua mấy hôm trước đây. Ðó là buổi sáng Chủ nhật tuần trước. Từ cặp loa của chiếc stereo nhỏ vọng ra tiếng hát dịu dàng của một nữ ca sĩ gã ưa thích. Em đã đến nơi này tựa như cánh én, Dịu dàng trao chút hương hoa mùa Xuân****. Người đàn ông có một mình. Gã đang ngắm K. Tấm hình gắn trong cái khung nhỏ màu nâu nằm yên trong hộc tủ đã lâu được gã mang ra từ lúc sớm. Ðám cưới của K. được cử hành ngày hôm trước, ở một nơi cách gã nửa vòng trái đất. Hai tuần trước đó, người đàn ông mang gói quà nhỏ ra trạm bưu điện đứng sắp hàng chờ đến phiên mình. Gã muốn biết chắc K. sẽ nhận được quà kịp lúc. Cùng với gói quà là bức thư ngắn, trong đó gã cẩn thận loại bỏ những lời lẽ có thể gợi lên ở K. những cảm xúc đã không còn cần thiết cho một hành trình mới. Mỗi vết thương lành một nỗi vui, Mắt cười mênh mông giữa đôi bàn tay.**** Mắt cười mênh mông giữa đôi bàn tay? Ý nghĩ đến như một tia chớp làm gã bàng hoàng. Gã thận trọng ôm cái khung hình màu nâu trong hai bàn tay, và từ phía sau lớp kiếng còn vương chút bụi là K. với nụ cười mênh mông từ đôi mắt dài và cặp môi cong. Mắt cười mênh mông giữa đôi bàn tay! Chính vào lúc đó, một cảm giác kỳ lạ bỗng kéo đến làm gã choáng ngợp. Một con sóng hạnh phúc vô cớ ập đến và nhận gã chìm nghỉm trong khối ánh sáng ảm đạm của căn bếp.

    Người đàn ông tìm thấy chiếc xe của mình trong bãi đậu không chút khó khăn. Cửa xe mở ra và đóng lại nhẹ nhàng. Gã không cần ngay cả một chai Michelob. Cảm giác của buổi sáng hôm nọ vẫn còn vướng vất. Gã biết mình thỉnh thoảng sẽ còn nghĩ đến K. và niềm hạnh phúc vô cớ sẽ lại kéo đến. Nơi tình yêu đi qua, kỷ niệm ở lại,***** có ai đó đã viết ra như thế. Gã thực sự mong muốn và tin tưởng K. sẽ có hạnh phúc. K. đã đi qua hết thời con gái bằng cách sống trọn vẹn mỗi ngày với tất cả cảm xúc của mình. Và gã may mắn luôn có mặt bên K. trong những ngày tháng đó. Còn người đàn bà với đôi mắt nâu buồn thiu dưới hàng lông mày cong như vành trăng khuyết mà mới vài phút trước đó gã đã nhìn thực kỹ để tìm chút dấu vết của cánh cửa sẽ mở ra cái thế giới của gã, và đã không tìm thấùy, sẽ để lại những gì? Giọng John Waite tràn ngập lòng xe bít bùng khi người đàn ông đưa chiếc xe nhập vào tuyến đường hướng về phía phi cảng. Thân trên lắc lư đánh nhịp, gã gân cổ hát theo. Ain'' t missing you ... I ain'' t missing you ...
    ___________________________________________
    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chú thích:
    * Missing You - John Waite
    ** Forest Gump - Nhân vật trong một phim cùng tên
    *** Tống Biệt Hành - Thâm Tâm
    **** Vẫn Có Em Bên Ðời - Trịnh Công Sơn
    ***** Khuôn Mặt Tình Yêu - Hồ Như
    [/FONT]
     
    Smod_03 likes this.
  5. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quán mưa[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Thu Phương[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vào lúc Tình sầu dứt, những tiếng vỗ tay của người trong quán nổi lên rào rào. Người đàn ông râu tua tủa ngồi ở bàn chỗ dưới gốc cây si rễ lòng thòng bỗng khóc thút thít lên như trẻ con:
    - Ðừng hát nữa em ơi, nhạc Trịnh mà qua giọng hát của em thì cầm bằng giết chết anh đi còn hơn.
    Cô gái không trả lời, thoáng nơi môi một nụ cười, những búp tay thon gẩy tiếp một khúc dạo đầu khác. Tình nhớ. Người trung niên ngồi đối diện cô e hèm dọn giọng, như thể sẽ là anh chứ không phải cô hát. Mắt người trung niên này ấm, kiểu mắt của những người đàn ông có trong tim lửa của tình yêu thương đồng loại, và luôn sẵn trong lòng một sự cảm thông thế thái nhân gian. Người rậm râu vẫn còn như tâm trạng lắm, ông ta dốc cạn vào cổ họng rượu màu vàng cam từ cái ly chân cao, quên cả chạm cho phải phép với những người xung quanh. Trung niên mắt ấm bất ngờ cất giọng, hóa ra anh ta hát thật... Ôi áo xưa lồng lộng, đã xô giạt trời chiều, như từng cơn nước rộng, xóa một ngày đìu hiu... Một đàn ông khoảng ba lăm tuổi ngồi ở góc cuối phòng với một thanh nữ khoảng hai lăm hai sáu gì đó cùng lúc nhún vai, khúc khích. Hẳn đôi người trẻ trung này không định đợi chờ những rong rêu và cũ xưa đến thế. Nhưng tiếng đàn và tiếng hát vẫn cứ cuốn lên, cuốn lên mải miết từng đợt miên man dường như là kỷ niệm, dường như gỡ lần khúc mắc, dường như tải lắm buồn vui quá vãng cuộc đời. Cô gái tóc ngang vai, mặt đẹp thanh tao và dịu hiền, đường nét nơi cô phảng phất buồn. Những lúc phiêu linh theo tiếng hát cảm thấy như cô hơi kiêu kỳ, và đầy bí ẩn. Kiêu kỳ và bí ẩn theo một kiểu tự nhiên nhất, từ bản chất, không màu mè tô vẽ. Vì thế mà trông cô không tuổi, với áo quần không thời gian, toát lên sự tự tại bất chấp luôn cả không gian.
    Người ba lăm tuổi chắc lưỡi nho nhỏ, thanh nữ bên anh hít hà vì trái ớt cay. Áo hai dây với những đường cong thanh thản, làn da màu ngà, nét môi sẫm, thanh nữ có vẻ tiêu biểu cho một số cô gái là tín đồ của mode thời trang gợi cảm đương đại, hòa nhập rất nhanh với những gì hay lẫn không hay ho gì của thế giới. Cũng như anh bạn cô, chỉnh tề, đường bệ và chải chuốt, mang dáng dấp khá tiêu biểu những manager thế hệ mới đầy ắp một tương lai. Họ hiểu nhiều nhưng đôi khi không cảm hết chiều sâu và sức lan tỏa của sự việc. Cô gái hát với khuôn mặt đẹp nhưng buồn và dĩ nhiên khó thể sẽ hát cho họ nghe một bài cover nào đó đang thịnh hành, hay chí ít cũng một bản top ten nội địa bằng cây ghi-ta gỗ cũ, cho dù họ có thiện chí mở lời yêu cầu chăng nữa.

    Hoài nhỏ, có ba phòng kể cả bếp, với một sân có hai cây to đeo dày đặc những xâu chùm gởi, hợp là một căn để ở hơn làm thành một cái quán, lại trong hẻm ngoắc ngoéo. Không có lấy một cây Organ hay một vài chiếc micro để hát với nhau theo mode quán xá ngày nay, không có dàn ampli khuếch đại những sóng âm ồn ào huyên náo nửa cổ nửa tân theo phong cách làng nướng, không có cả một màn hình tivi nhiều inch để biết bữa nay ai sút thủng vào lưới ai, hoặc ai đã thay ai làm tổng thống, không có dương cầm, thụ cầm và vĩ cầm sang trọng kiểu các phòng trà, không có cả thực đơn và những món đồ để bàn in tên hãng tài trợ nào đó cần được quảng cáo. Không có nhiều thứ. Chỉ có giọng hát khàn ngân rung xao xuyến của cô gái và tiếng đàn bập bùng, cùng với một khoảng trầm thanh đới dịu dàng của trung niên kia hòa theo phụ họa, nhưng ý chừng lại tương hợp trọn vẹn với rêu phong meo mốc, những mặt nạ bằng tre, những cây rễ, những vách ngăn không đường nét và những tường màu thời gian màu quá khứ được xây theo ngẫu hứng phá cách. Và khi mưa đổ xuống rì rào, không có cả những dù che xanh đỏ. Người ta ngồi nguyên dưới tán si dày mà uống, mà nhấm nháp, với nước mưa thỉnh thoảng tuôn xuống chảy ròng ròng trên đầu cổ. Những thức ăn dân dã quen tên. Người ta ít nói khi đến đây, có thể vì ngoài bôn ba đã phải nói và phải nghe quá nhiều.
    Ðến đây thường là những người đã phải biết quá nhiều. Ðã phải trải quá nhiều. Trải qua và chiêm nghiệm, từ vinh quang cho tới cay đắng. Ðã không chỉ một lần được (hay bị?) điểm mặt gọi tên vì cả tai tiếng lẫn nổi tiếng nơi các đám đông. Ðến nỗi giờ đây với họ, đời và người chẳng còn gì là đáng để ngạc nhiên. Nếu có một giây phút nào đó bứt ra khỏi được những sân si trì níu, ý chừng là khi họ được khuây khỏa vô ưu nhất. Họ thèm được những buổi ngồi lơ mơ bên nhau, như không còn hiện hữu, trong mưa lờ mờ, chính bản thân cũng hóa ra nhạt nhòa, để quên đi thực tại. Vào những phút giây phi thực và siêu thoát như thế, tất cả ngang bằng với nhau và vô vi những khái niệm dùng để phân biệt ranh giới, chia ngôi thứ, đẳng cấp. Như một kiểu ngồi thiền đa tư thế. Thiền tập thể.
    Cô gái lại hát. Cũng vẫn một bài xa xưa. Cũng vẫn khàn rung lịm người. Cổ cô vươn cao thanh mảnh, trắng ngần, lẩy bẩy những làn hơi run rẩy đi qua. Khóe môi như đang ngậm một nỗi đau mà hát. Trung niên đứng dậy, mắt ấm nhìn vào mưa như không nhìn vào đâu. Hóa ra anh là chủ quán này. Anh quay lại nói gì đó với những người bồi và khoát tay một vòng. Một món mời. Cho tất cả. Tôi mời đấy. Vâng, dĩ nhiên miễn phí. Món này nhâm nhi tuyệt diệu, nhất là dưới mưa thế này.
    Cô gái ngẩng lên, cổ thêm rướn cao, mắt cô như ứa lệ. Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ, ôi những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa... Thanh nữ mặc áo hai dây mỉm cười, nụ cười ngây ngô. Bạn trai của cô ta giơ tay ra dấu xin cho một đôi nến. Góc này đèn lù mù, tối quá. Nhạc gì mà buồn, đời đâu đây vẫn đẹp lắm chứ. Ðời với hai đứa tôi là màu hồng. Không có gì phải phàn nàn. Thất tình nghĩa là sao, chúng tôi yêu nhau, cho đi và được nhận lại, sang năm đủ điều kiện thì cưới. Lúc ấy sẽ mời tất cả các vị tới dự nhé, chịu không. Sự viên mãn đạt thành chảy tràn trên khuôn mặt giám đốc trẻ và bờ vai trần của cô bé trong ánh nến. Cô gái hát nghiêng người hất một món tóc vừa đổ xuống. Ông rậm râu bưng ly rượu qua mưa đi tới:
    - Uống với anh một ly, em.
    Cô ngừng hát cầm ly, uống cạn. Ông ta có vẻ đã rất say, mắt đỏ vằn lên, da bì bì mòng mọng, không hiểu say rượu hay vì nỗi buồn. Em đẹp. Ông ta nói mà không nhìn cô thiếu nữ. Có lẽ ông say còn cả vì nhan sắc. Ông trở về bàn mình, theo quán tính đưa tay cụng với những người khác bằng cái ly đã hết.
    Món chiêu đãi được dọn ra cho mỗi bàn. Bàn năm người phụ nữ nghe à lên xuýt xoa. ?n như thế nào, bánh tráng này dùng để làm gì, xúc hến ăn ư. Người phụ nữ trẻ nhất bật cười thích thú, tôi chưa bao giờ được ăn món này. Nói rồi quay ra cửa như ngóng ai. Người phụ nữ già ngượng ngùng, tôi cũng chưa ăn, nhưng có nghe người ta nói, ừ, có mấy thuở được đi ăn hàng ăn quán đâu. Người phụ nữ mắt nâu bảo tôi không ăn, tôi có người yêu đầu đời quê ở Hội An, vì một kỷ niệm gắn với cái món này mà mẹ anh ấy đã không chịu ưng tôi. Người trẻ nhất háo hức, chồm mình qua chiếc ghế trống kế bên, chuyện thế nào, chị kể nghe được không. Người mắt nâu lắc đầu, qua lâu rồi, bây giờ đã cũ quá rồi còn kể làm gì. Cũ mà không quên được thì càng hay. Thôi mà, bỏ qua đi. Người phụ nữ mập tròn giơ đũa, món này ngó ngon mắt quá, người ăn kiêng có ăn được không. Người phụ nữ gầy nhỏ áo hoa cà ngồi nơi cửa sổ âu yếm nhìn hoài người trẻ nhất, nhưng không nói gì.
    Những người đàn ông không bình luận mà im lặng uống. Họ không phải tới đây lần đầu. Ðôi tình nhân đẹp đôi trong góc níu người đàn ông chủ quán, chúng tôi muốn xin cart-visit, để còn giới thiệu cho bạn bè tới. Cám ơn ý tốt của anh, nhưng chúng tôi không có thứ ấy, chủ quán đáp. Không có danh thiếp, vì không địa chỉ, và không có cả điện thoại. Giám đốc trẻ ngạc nhiên, ông không định làm giàu sao, quán ông có phong cách riêng lắm, phải khuếch trương lên cho nhiều người biết chứ. Ðôi mắt chủ quán nhìn đi đâu, hình như tôi không cần những điều ấy.
    Có tiếng một ai đó lao xao ngoài cửa, gần như tất cả nhìn ra. Người đàn bà không rời khỏi chiếc xích lô, ngượng nghịu quay đi. Ðứa trẻ con bối rối đi vào. Ba. Nó đến bên, người đàn ông trung niên ngồi thụp xuống ghế và giơ tay kéo nó vào lòng. Cái nhìn của anh dịu dàng và những vuốt ve dành cho đứa nhỏ cũng quá đỗi dịu dàng như thế. Vài tiếng phụ nữ trong bàn năm người xuýt xoa khen vẻ ngoài xinh xắn của đứa nhỏ. Linh ơi, mưa to đấy. Tiếng bà mẹ ngoài xe vọng vào ý chừng sốt ruột. Con phải về, đứa bé sụt sịt khóc. Anh bần thần một lúc rồi sực nhớ ra, đến chỗ quầy và nhanh chóng trở lại với một nắm tiền, không đếm, dúi vào tay con bé, và anh cuống quýt hôn con. Ðứa nhỏ thút thít khi cầm tiền. Tháng sau ngày này con lại tới, con bé bối rối vuột ra. Ừ, ba sẽ chờ. Con và mẹ cám ơn ba nhiều lắm. Câu nói như trích trong một bài thuộc lòng. Con... con nhớ ba lắm... Câu nói nghẹn ngào bởi thật. Linh. Tiếng người mẹ thanh thanh dóng dả. Cô bé gái òa lên khóc. Con nhớ ba không thể kể nổi. Mưa bỗng như trút nước. Thôi con về đi, ông bố ngậm ngùi, thảng thốt. Nghiêng mình che khi đưa đứa bé ra ngoài sân nơi chiếc xích lô.
    Không ai nói lời nào còn ông rậm râu lại đi qua mưa với cái ly đầy chất lỏng sóng sánh màu vàng cam. Uống đi. ánh mắt người đàn ông chủ quán buồn sâu sắc khi ông ta nâng ly lên môi. Có tiếng thở dài đâu đó. Rồi bất ngờ tiếng ghi-ta lại trỗi lên, thổn thức. Tưởng chừng như người chủ quán trung niên sẽ bật khóc, nhưng không, mắt anh vẫn khô khốc.
    Vì mưa quá lớn nên bàn của bốn người đàn ông đành phải dời vào trong. Khi tiếng ghi-ta đã dịu đi thì người đàn ông đeo kính bắt đầu đọc thơ. Hình như thơ của chính anh. Thơ tình. Thế gian có lẽ chung quy cũng nặng nợ một chữ tình, ông rậm râu đúc kết. Người đeo kính đọc không hay, giọng anh rè rè như đã được tẩm liên tục từ nãy đến giờ cả trăm điếu thuốc lá. Nhưng bài thơ được anh chọn đọc thì thiết tha và hợp với cảnh đến nỗi làm xao xuyến tâm can gần như tất cả. Người phụ nữ gầy áo hoa cà ứa nước mắt, nước mắt trong trẻo ấy làm chị trông mềm ra như một vị nữ tu một sớm mai bất ngờ nhặt được đứa trẻ sơ sinh bị bỏ rơi khóc oe oe nơi cổng tu viện.
    "Không thể hiểu được", người nam tình nhân ngồi trong góc quán lẩm bẩm. Những con người này giống như đang lùi về một khoảng không gian nào xa biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Nơi người ta đến với nhau không bằng cách gõ vào bàn phím vi tính để nối mạng tìm nhau với những user name đại diện cho các cá nhân. Nơi người ta nhắc về điện thoại di động không nhiều hơn nhắc về những câu thơ và những lời cảm thán không bỏ dấu qua chức năng nhắn tin. Nơi tiện nghi nhất là không còn một tiện nghi nào để khỏi phải vướng bận. Nơi bổn phận và trách nhiệm không bắt buộc phải được thi hành. Như có một vòng voan mỏng vô hình phủ lên quanh họ, êm dịu, tựa như sương, cách ly và miễn nhiễm họ khỏi những bon chen, đấu đá, ganh ghét. Bởi đã quá mệt mỏi, quá bận rộn, quá vướng víu, quá ràng buộc, với trăm ngàn thứ linh tinh khác nhau có tên lẫn không tên, choán chỗ đầy ắp những phần của tâm trí và cơ thể, nhân danh cái gọi là cuộc sống.
    Người phụ nữ mập tròn lại chợt bật cười vì một cái gì đó, đôi má bầu bầu của chị hồng hào lên vì thích thú. Vậy mà lúc bước vào đây, trông chị ủ rũ như chiếc bắp cải héo mùa sụt giá năm trăm đồng một cân. Người phụ nữ mắt nâu rụt rè đề nghị cô gái ghi-ta đệm cho chị một ca khúc quen. Giọng chị run rẩy và nhỏ, yếu. Chị hát một bài về biển và sóng. Ở những khoảng ngân chị như hụt hơi. Sao không hát về Hội An, người trẻ nhất trong bàn nói. Tôi không biết gì nhiều về Hội An, dù cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa quên được người xưa, mắt nâu thành thật. Người trẻ nhất lan man, nếu yêu ai chắc em yêu cả con đường anh ấy tình cờ đi qua dưới chân, cả ngọn cỏ anh ấy dẫm đạp lên, đừng nói là quê hương anh. Mắt nâu thì thầm, thì tôi cũng đã muốn thế, nhưng rất tiếc, tôi không được yêu bởi mẹ anh. Người phụ nữ già có vẻ không thú vị những chuyện liên quan đến đàn ông. Trông chị như một bà giáo trường làng ngay ngắn, khuôn khổ, sống lâu lên hiệu trưởng, không quan tâm gì nhiều hơn chính cái trường làng của mình. Người trẻ nhất lại kín đáo quay ra cửa, vẫn vẻ trông ngóng. Người phụ nữ gầy tất nhiên không hề bỏ qua chi tiết nhỏ nhưng quan trọng kia.
    Người đàn ông có những ngón tay gầy guộc ở bàn bên bỗng đứng lên, mặt anh ta đỏ gay, mặt của người có độ cân bằng trong cơ thể yếu, loại người uống không được nhiều. Biết vậy nhưng anh ta vẫn uống. Chính khi mất cân bằng người ta dễ cảm nhận cuộc đời một cách trọn vẹn hơn. Như một quả lắc, lúc đánh nghiêng qua một phía, người ta nhìn lại bản thân khi đang an nhiên tự tại. Thấy có nhiều chỗ hụt, nhiều khoảng chênh, biết mà không thể bù lấp. Theo anh ta, thỉnh thoảng cũng nên ngã ra để nhìn về sự thiếu hụt ấy cho bớt vênh vang, xênh xáo, bớt đi những ảo tưởng dù số phận có đặt ta vào chiếu trên thiên hạ. Ngược lại, cũng chính sự mất cân bằng cho ta thấy chính ta đã từng đủ gan giữ mình, thay vì hư hỏng, để bớt những tự ti nếu ta có bị số phận dập vùi, ghẻ lạnh. Anh ta quay sang cô gái, xin cô vui lòng cho tôi nghe bài Lữ khách sang sông. Những ngón tay gầy của anh cầm ly rượu mời cô gái run run. Rượu hỗ trợ mà xem ra anh ta cũng không lưu loát hơn trong khoản giao tế với người khác phái. Xin lỗi, nhưng tôi không biết bài hát ấy, cô gái thật lòng. Còn tôi thì biết mà không thể hát. Nếu anh muốn xin hãy chọn bài khác... Không, với tôi chỉ một bài hát ấy là hay.
    Anh ta vung tay lên trước khi ngồi xuống. Có lần tôi đã vẽ bài hát đó các vị có biết không. Mày say rồi. Ông rậm râu gạt đi. Say cái gì, tôi vẽ thật đấy, vẽ một cô gái cũng đẹp mà buồn như cô này, ngồi trên một con đò, chờ chở khách sang sông. Một ngày mùa đông đấy nhé, xám ảm đạm, lạnh run cắt da, nhưng thiếu nữ trong tranh lại chỉ phong phanh manh áo mỏng, tím bầm thịt da. Lữ khách không đến, còn mải ruổi dong nơi đâu. Ðàn bà nói chung phải biết kiên nhẫn chờ đợi đàn ông... Mày đang nói hay rượu nói. Ông rậm râu quát tháo. Có chỗ tôi nói có chỗ rượu nói. Ông rậm râu bật cười, biết thế thì tốt rồi, mà đàn bà như con vợ mày đời này thiếu cha gì, có quái gì đâu phải tiếc. Cứ cho nó theo trai, giải thoát. Anh câm đi, anh say thì có, thứ nó tôi tiếc mẹ gì. Hai người đàn ông chửi nhau, và cụng ly muốn vỡ. Tha thứ đi, tha thứ hết. Người trung niên chủ quán giọng trầm bỗng cất tiếng. Có lúc tôi còn muốn giết người, nhưng rốt cuộc lại quay ra giết mình. Có lúc muốn chết, thế mà vẫn nhăn nhở sống. Có lúc là chỗ dựa cho người ta, nhưng cũng có khi ngã sấp mặt xuống bùn không ai hay. Có lúc khinh bỉ nhếch môi, rồi có khi lại phải quỳ xuống để tạ ơn đời. Tha thứ đi, đời người ngắn lắm. Tha thứ. Người tay gầy mỉm cười. Dĩ nhiên là tha thứ chứ. Yêu thế nào thì tha thứ thế ấy. Yêu nhiều độ lượng nhiều. Mà đàn ông rộng lượng, có khi vớ phải con đàn bà ti tiện nhỏ nhen, đã biết là chẳng đáng, vậy mà vẫn cứ yêu cứ tiếc nó như dại như điên. Xin lỗi các bà các cô ở đây, là tôi không ám chỉ ai trong số các vị đâu. Ðừng ai chấp nhất kẻ say. Người ba lăm tuổi bỗng rời góc quán, đem đến ly của mình và xin được làm quen. Tôi nhận ra anh ta rồi, tranh và ảnh của anh thấy in trên tờ nhật báo sáng nay. Anh là họa sĩ Z. phải không, tên anh ai mà chẳng biết. Thế ư, thế ư. ảnh ấy trông có giống cái thằng tôi bây giờ không. Thú thật là trong ảnh trông anh... đẹp và lịch sự hơn. ừ thì uống mừng những thằng không đẹp, lại cũng không lịch sự. Chỉ ông vuông vức ngồi bên, anh ta ề à, ảnh của cái thằng này nó chụp tôi đây. Ông vuông vức mỉm cười hiền hòa, lẽ ra phải chụp ảnh hắn đúng ngay lúc này. Say bét nhè, trông hắn sẽ thật hơn, phải vậy không.
    Nơi cửa, gã trai tóc dài rũ mái cố không làm ai chú ý khi anh ta xuất hiện, nhưng những người phụ nữ vẫn biết, và tíu tít mừng rỡ. Khuôn mặt đẹp đẽ và tươi tắn như thiên thần của anh ta ướt đẫm nước mưa. Nhẹ nhàng vắt cái áo mưa lên vách, anh ta đi đến bàn năm người đàn bà, gật đầu và ngồi xuống cái ghế trống bên cạnh người trẻ nhất, mỉm cười hết sức dễ thương. Những người đàn bà hoan hỉ nhìn anh ta, rồi, ân cần và sốt sắng chuyển đến trước mặt anh khăn để lau mặt, ly và rượu để uống, đũa và chén. Người đàn bà lớn tuổi nhất trách yêu, mọi người chờ muốn nản luôn, con tới trễ gì đâu. Người trẻ nhất mỉm một nụ cười thật tươi, ánh mắt có phần tôn thờ si mê, nhưng điệu bộ và lời lẽ của cô thì như đang cố khẳng định quyền sở hữu, uống một hớp cho ấm bụng đi, anh yêu dấu. Người gầy áo hoa cà triều mến, lau mặt đã chứ, cậu em, ướt quá đi thôi, biết không, con nhỏ sốt ruột trông em mãi. Người mắt nâu lấy ra một chiếc lược nhỏ màu nâu đưa tới, chải đầu nè cưng, trời ơi, mưa vầy mà tới được là quý lắm rồi. Người mập tròn gắp thức ăn ê hề vào chén, âu yếm giục, ăn đi cậu bé, ăn đi để sống... Ðúng lúc ấy, cô gái ôm ghi-ta lại so dây. Có lẽ vì ngồi quay lưng lại và mải chìm đắm với chính mình, nên cô không biết được người ta đang hoan hỉ và săn đón nhau dường kia.
    Vào lúc giọng cô vút lên, người trai mới đến giật mình thảng thốt. Trời ơi, Thiên Di. Có phải là em không. Thiên Di như điếng người khi bị gọi tên, quay lại nhìn anh ta, lập tức tái xanh hoảng hốt. Luống cuống, trật trẹo đứng lên, cô gái lẩy bẩy buông rơi chiếc ghi-ta gỗ. Người trung niên chủ quán thấy thế vội bước tới bên cô như để chở che, rất từ tốn, anh cúi xuống nhặt cây đàn lên. Lách qua đôi vai rộng của anh, chật vật chụp lấy đôi nạng để dựa tường ngay gần đó, cô gái luống cuống lao ra mưa. Ðứng lại, Thiên Di. Gã trai gào lên. Anh đi tìm em suốt bao năm nay. Em vẫn không tha thứ cho anh sao. Anh ân hận vô cùng em có biết không... Y như một xen phim diễm tình những năm sáu mươi, ông rậm râu đờ đẫn buột ra, trong khi anh họa sĩ bỏ vợ hoặc vợ bỏ giật mình nghiêng ly đổ hết cả rượu vào cổ áo anh nhà thơ.
    Khuôn mặt Thiên Di chan hòa nước, và mưa xối tuôn trên đầu tóc, quần áo, chân tay, nhưng cô mặc kệ. Gã trai lao theo ra sân, nhưng cô đã gạt hất vòng tay gã ra, quyết liệt đến nỗi một trong hai chiếc nạng sắp ngã xuống. Bằng một sức lực có lẽ phi thường, cô bậm môi lấy lại thăng bằng rất nhanh chỉ với chiếc nạng còn lại, và, tiếng cô vang lên rành rọt mạnh mẽ trong mưa, như nói cho tất cả mọi người lúc đó đang lặng đi theo dõi cùng nghe. Ðể cho tôi yên. Anh đi đi. Tôi không bao giờ muốn nhìn thấy mặt anh. Người kia nhìn cô, sững ra, không biết phải làm gì. Người đàn bà gầy áo hoa cà bỗng đứng phắt lên, tay giữ cao vô thức như chuẩn bị giáng cho ai cái tát. Người phụ nữ mập tròn miệng khoanh một vòng chữ O trước tình thế gay cấn. Ðôi tình nhân trong góc cùng ngỏng cổ lên, như đang đứng giữa một đám đông hiếu kỳ xúm xít xem người ta đóng phim. Lúc đó, người chủ quán bình tĩnh để cây đàn lên bàn rồi bước ra mưa, mạnh mẽ và quả quyết, anh ẵm xốc cô gái đưa vào trong, và đặt lên ghế, gọi bồi mang tới một chiếc khăn khô. Dịu dàng, anh cẩn thận dùng khăn lau nước mưa cho cô, như gượng nhẹ, vỗ về. Cái vẻ gượng nhẹ vỗ về gợi liên tưởng đến nỗi dịu dàng anh đã dành cho đứa nhỏ con gái của anh ban nãy. Cô nức nở, gục đầu vào vai người trung niên. Mọi người cứ nghĩ mà coi, nỗi đau thể xác lẫn tinh thần còn nguyên đó, dù có qua năm tháng vẫn không phai, hỏi em làm sao có thể nhìn mặt hắn chứ. Lời cô đứt quãng... Thôi nào, đừng khóc, Thiên Di. Ðừng khóc. Tha thứ hết đi em.
    Gã trai tóc dài trở vào từ mưa, đứng nhìn, tay xuôi, vai xệ rũ, mãi gã cũng không biết phải nói gì...

    Từ sau đêm đó, Thiên Di không bao giờ trở lại Hoài nữa. Cô là một cô gái hát rong, không ai biết quá khứ, rày đây mai đó, lang thang đàn hát kiếm chút thù lao độ nhật qua ngày, tùy lòng hảo tâm của người đời. Ðêm ấy, cô đã nằng nặc ra về ngay dưới mưa, không cho bất kỳ ai đưa tiễn. Bất chấp người chủ quán khuyên giải can ngăn, bất chấp anh họa sĩ tay gầy bàn ra, bất chấp ông nhà báo vuông vức nói lời phải trái. Dù thế, gã trai có khuôn mặt thiên thần nọ vẫn cứ lén lút bám sát theo sau cô gái, ngay khi cô vừa rời quán.
    Cũng đêm ấy, những người trong quán đã được chứng kiến cơn say ngất trời của một cô gái khác: người trẻ nhất của bàn năm người phụ nữ. Cơn say có màu sắc bình thường, như mọi cơn say bí tỉ bất kỳ, nhưng có khác về yếu tố bi lụy, là bởi người say trong lúc không kiềm chế nổi đã có cười có khóc, có nói năng văng mạng tí chút. Sự cảm thông đã lên đến đỉnh điểm khi tất cả bốn người phụ nữ còn lại trong bàn đã hè nhau cùng uống đến say túy lúy, uống cho cái gọi là vứt hết. Và người phụ nữ lớn tuổi nhất đã thở dài bảo rằng chị rất tiếc khi thấy quan điểm của mình về đàn ông trong tình huống này đã đau đớn đúng. Thế nhưng, ông rậm râu bực tức phun phè phè nước miếng, chả biết thằng con trai ấy đã làm gì cô ta trong quá khứ, chỉ chắc chắn một điều: nó có phải là tất cả bọn đàn ông đâu.
    [/FONT]
     
    Smod_03 likes this.
  6. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quán nhậu[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Triệu Bôn[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tiếng mành trúc lao xao một lát rồi chủ quán mới hiện ra. Thoáng trông, tôi ngỡ ông là dân vạn chài vùng biển. Cao lớn, quần áo bà ba nhuộm gụ, da đỏ au, để râu dài, và đi guốc. Ông nhìn hai chúng tôi từ đầu đến chân, hỏi:
    - Các chú muốn gì?
    Cậu Tuyến bạn tôi ấp úng:
    - Đây có phải quán đặc sản rết?
    - Phải. Nhưng ví các cậu có dày không mà đến đây?
    Tôi chạnh tự ái:
    - Theo ông, phải bao nhiêu mới gọi là dày?
    - Tùy. Tiền triệu cũng gọi là dày, tiền trăm cũng gọi là dày. Mà tay không cũng gọi là dày.
    - Thế thì ông cho chúng tôi thưởng thức đặc sản của ông đi. Nếu ví không đủ dày, đã có cái kia - tôi chỉ vào cái xe máy to lênh khênh như con lạc đà của bạn tôi dựng trước quán - được chưa?
    Ông già vuốt chòm râu rủ xuống tới cái cúc áo thứ hai trước ngực, lẹp kẹp lê guốc quay vào. Tiếng mành trúc bên trong lại lao xao và tiếng ông già vọng ra: "Các chú vào đây. Quán này, ai cũng phải làm mới có ăn. Thích ngồi một chỗ gọi bồi bàn, thì đi nơi khác".
    Tuyến đưa mắt nhìn tôi. Tôi cũng liếc sang nó. Hai đứa ngầm trao đổi với nhau một cảm giác rờn rợn như lạc vào một tửu quán nơi Lương Sơn Bạc. Có điều Lương Sơn Bạc này không hồ rộng núi cao, không đèo dốc hiểm trở, mà là bên một cánh đồng lúa vàng bát ngát trải dọc theo quốc lộ 6, ở phía tây thủ đô Hà Nội. Còn "Tụ nghĩa đường" chỉ là ngôi nhà tre lợp lá cọ, rộng mông mênh, ngoài cổng có giàn hoa giấy và một cây đại sù sì hình như đã sống cả nghìn năm.
    Dưới gốc đại là cái cổng tre có hai thanh chốt ngang, thứ cổng cực kỳ "cổ điển" ở nông thôn. Và qua khỏi đó là con đường đất thẳng, dưới hai hàng nhãn, quét sạch như ly như lau.
    Khi chúng tôi dắt xe qua cái cổng chốt, ông chủ quán ra chốt cửa lại. Vừa chốt ông vừa lẩm bẩm nói trống không, cốt giải thích cho chúng tôi hiểu:
    - Quán Tư Hiền không bao giờ tiếp khách quá ba lần một ngày. Không bao giờ tiếp hai hội khách cùng một lúc.
    Các thủ tục tiếp đón thế là đã xong. Không treo biển quán. Không trang trí lòe loẹt để mời chào. Vắng teo. Bốn bề lặng lẽ như tờ. Chỉ có gió sáng tháng chín se lạnh và lồng lộng nắng vàng cuối thu.
    Rợn thật. Nhưng hãy dấn thân một lần xem thử. Nếu đây là chốn giang hồ, ắt có luật giang hồ của nó. Luật giang hồ cũng có nét phân minh dễ chịu, đâu phải tất cả đều hãi hùng kinh tởm như người đời vẫn tưởng.
    ấy là theo lối suy luận bạt mạng của riêng tôi. Thằng Tuyến, không hiểu nó nghĩ thế nào mà mặt hơi tái đi. Nó sợ lõm túi chăng. Chắc là không. Nó từng sống ở thành phố Rôm bên ý mới về. Nghe đâu nó còn có cả đô la gửi nhà băng bên ấy nữa. Là "con nhà nòi", nó giàu có hơn tôi là chuyện hẳn nhiên. Nhưng tôi ngầm bất bình vì từ hôm về nước tới nay nó tỏ vẻ in hệt một ông kễnh bên Tây sang chơi xứ mọi, hễ mở miệng là bên ấy người ta thế này, bên ấy người ta thế nọ, chứ đâu lặt vặt tủn mủn như xứ mình. Tôi nổi cáu, xì một tiếng rõ dài:
    - Cậu mới đi xa mấy năm mà khéo quên cả quê hương rồi. Tớ ấy à, đi chơi nước này nước nọ vài ba tuần lễ thì khoái, chứ phải ăn cơm Tây tới một tháng là ớn tận cổ. Tớ thích ăn cơm ngồi xếp bằng trên chiếu, dưa cay với cá rô rán dòn, với ốc nhồi nấu đậu phụ chuối xanh...
    Cuộc khích bác lẫn nhau dẫn đến cuộc phiêu lưu quán nhậu Tư Hiền sáng nay. Thực tình, tôi mới nghe mấy tay nhà báo bẻm mép khoe về cái quán nhậu ngoại thành này chứ đâu dám mon men tới. Tại thằng Tuyến thách: "Đố cậu tìm được cửa hàng ăn nào sang trọng, sạch sẽ như bên ấy, nên tôi liều đưa nó đi, vừa đi vừa hỏi dò đường tới đây.

    Phòng tiệc quán Tư Hiền chỉ là một chái lợp lá, vẩy ra sau hồi nhà, bên cạnh con mương thủy lợi, và phải kể thêm cả cái phông vĩ đại là cánh đồng vàng cùng vòm trời mùa thu trong veo không một gợn mây. Nền không lát gạch, mà là thứ đất nện phẳng như mặt kính. Gần một nửa diện tích trong phòng dùng để dựng nên một phong cảnh núi non hùng vĩ, tất cả đều được đắp bằng đất sét. ở một "sườn núi đổ dốc xuống "dòng khe" cạn ngoằn ngoèo, có một cái lồng lưới sắt, bên trong lúc nhúc tới vài trăm con rết, không con nào thật to, chỉ sàn sàn cỡ cái bút chì, cái bút máy trở xuống; nhưng cũng không có con nào quá nhỏ.
    Từ cái "trại rết" này, có chiếc cầu bắc qua "khe" cạn, bằng một thanh nứa dài uốn cong, để sang đám sân rộng chừng nửa tờ báo được quây kín ba phía bằng lưới thép. Ngay dưới cây cầu vồng nứa, trong lòng khe cạn, có ba ông đầu nhau đội một cái chảo nhôm rộng vành đựng nước.
    ông Tư Hiền ném vào mảnh sân quây lưới thép một con gà giò đã mổ sạch sẽ; lại để cạnh con gà một cái nắp ga men đựng nước trong, ông bảo là rượu. Đoạn, ông đưa cho tôi và Tuyến mỗi đứa một cái que nhỏ, rồi mở cửa "trại" rết.
    - Các chú thích ăn bao nhiêu con thì gạt chúng ra.
    Bọn rết đói ngửi thấy mùi thịt gà sống liền nháo nhào dẫm đạp lên nhau. Chẳng đợi chúng tôi phải gạt, chúng kìn kìn kéo ra khỏi cửa lồng, chen chúc bò qua cầu... Ông Tư Hiền hỏi Tuyến "Thế đủ ăn chưa"? Tuyến gật đầu. Cái cửa lồng được sập lại. ở mảnh sân bên kia cầu có khoảng bốn, năm chục con rết đang ngấu nghiến bâu quanh con gà ăn rào rào. Không ngờ lũ rết phàm ăn đến thế. Con gà chừng bảy, tám lạng, mà mươi phút sau chỉ còn trơ lại bộ xương. ăn xong con nào con nấy bụng phình ra, lại vục đầu vào cái nắp ga men tranh nhau uống nước mà kỳ thực là uống rượu. Cha sinh mẹ đẻ ra lũ rết chưa bao giờ được nếm cái thứ nước kỳ quái ấy của loài người. Lại, từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi mới được thấy cảnh lũ rết say rượu ngất ngư bò qua thanh nứa uốn cong để về lồng. Nhưng chẳng con nào về được lồng. Chảo nước bên dưới cái cầu vồng kia đã sôi bùng bùng từ lúc nào. Lũ rết say qua đó gặp hơi nước xông lên đều lần lượt rơi lõm bõm xuống chảo.
    Đợi hóa kiếp cho con rết cuối cùng xong, ông Tư Hiền cầm cái môi dùi lỗ như môi nhúng bánh phở, sục vào chảo vớt rết lên. Mỗi con ông cầm tuốt một nhát, xếp vào chiếc đĩa sứ. Thoắt cái, đĩa rết trắng ngần như đĩa ngó cần, đầy có ngọn.
    Hóa ra trong quán còn một ông già nữa mà ông Tư Hiền giới thiệu là chú Năm úc. ông Năm úc người xương xương, cũng bận quần áo bà ba nhuộm gụ, cũng để râu dài nhưng khác với ông Tư Hiền là có mái tóc búi tó như quả bưởi treo sau ót.
    Ông Năm úc chắp tay khiêm nhường chào khách, mỉm cười không nói. Ông xuất hiện với những công việc của người phục vụ: trải chiếu ra nền đất, xếp cây đèn cồn và mấy cái soong có cán bằng thép không rỉ vào một góc. Tiếp sau, ông bê một đĩa rau thơm, một đĩa ớt đỏ, một đĩa tôm chua cùng các thứ ăn kèm như bát gừng sắt chỉ, khế xanh, chuối chát, hành chẻ, thịt lợn ba chỉ,... món nào cũng được thái mỏng, xếp sắp hài hòa đẹp mắt chung quanh cái khay đựng bún lá, trông như bức tranh, lại như bông hoa mỗi cánh một mầu vừa nở trên mặt chiếu.
    Ông Tư Hiền bê ra một hũ sành nút lá chuối. Cả chủ và khách cùng vào tiệc. Với cây đèn cồn, lọ dầu rán thực vật, mấy cái soong có cán, ai muốn ăn rết nướng, rết luộc, rết đảo dầu,... ông Năm úc vui vẻ chiều ý.
    Thiết tưởng cũng nên kể thêm chi tiết này: những năm đánh Mỹ trong Nam bộ, chúng tôi vẫn từng suy tôn món thịt rết ngang hàng với món tôm sú, tôm nghệ, tôm gạo, tôm he ở các cửa biển miệt rừng đước ven bờ vịnh Thái-lan. Nhưng thảng hoặc lắm chúng tôi mới tóm được một con từ các ngách hầm, từ trong lá mục, có khi từ kho đạn và cả từ trong nòng súng B40 bò ra. Những dịp hiếm hoi ấy, việc đầu tiên là phải nhóm một đống lửa, gạt cho chú rết bò thẳng vào đó, rồi bẻ mấy khúc chia nhau. ăn kiểu lính mà. Bởi thế, với tôi dù không lạ món thịt rết, mà vẫn phải trố mắt trước đĩa rết ở quán nhậu Tư Hiền. Tôi chọn món rết nướng lửa đèn cồn, rất "truyền thống" con nhà lính. Tuyến đòi thưởng thức cả rết nướng, rết luộc, và rết đảo dầu. Ông Tư Hiền gật gù với ông Năm úc.
    - Chú cho tôi món tái dấm.
    Thế là cả Tuyến và tôi cùng đòi theo. Rết tái dấm, nghe đủ mê rồi . Chỉ nể ông Năm úc bận rộn thêm một lúc nữa. Rồi chúng tôi chuẩn bị nâng chén. Cái nút lá chuối trong tay ông Tư Hiền vừa bật khỏi miệng hũ, tôi và Tuyến cùng sững sờ. Rượu gì mà chưa uống đã thấy ấm ran người, và cứ ngỡ như mình đang được ngồi giữa ruộng lúa nếp cái trổ đòng đòng.
    Tôi nhìn Tuyến, thay cho câu hỏi: ở bên ấy cậu uống rượu nho mấy trăm tuổi, uống Hênétsi, Uýtky, Napôlêông các loại thượng thặng của xứ Tây, đã được nếm loại "thánh tửu" này lần nào chưa?
    Hình như Tuyến không hiểu ý tôi. Nó ngồi ngây như phỗng, hai cánh mũi phập phồng. Tay nâng chén rượu sáng long lanh từ tay ông Tư Hiền trao, cu cậu chỉ dám chạm ướt môi rồi lại ngẩng lên, đầu nghiêng nghiêng ra vẻ ngẫm ngợi, ra vẻ cố mà chiêm ngưỡng một kỳ tích vô tiền khoáng hậu trong cõi trời đất bao la. Bất ngờ, Tuyến buông một câu hỏi rất chi là thị trường:
    - Rượu này bao nhiêu một lít. Bác?
    Ông Tư Hiền cười rung cả chòm râu:
    - Của đâu mà có lắm thế? Nhân thể tôi nói cho các chú hay: Rượu này không ở đâu có, ngoài quán Tư Hiền. Chính tay Tư Hiền lựa giống nếp cái hoa vàng, chính tay Tư Hiền ủ, cất. Do đó mà không bán, không tính tiền với khách. Nếu tính, chắc phải mười đô la một chén...
    Tuyến nghe thế giật mình. Ông già càng cười to, chỉ đũa vào đĩa tôm chua:
    - Món này là "độc chiêu" của chú Năm nhà tôi. Chú ấy phải xuống tận cửa sông Vân úc, đón tôm nước lợ, mua lúc còn búng tanh tách. Rồi phải muối ngay dưới đó mang về.
    Thịt rết, tôm chua, khế xanh, chuối chát,... gắp sáu, bảy gắp mới vừa một miếng và thêm ngụm "thánh tửu" nữa bỗng như trời và đất, mây và nắng hòa nhập cả vào mình đưa mình bay đến tột cùng vũ trụ.
    Đĩa thịt rết đã vơi. Có tiếng người gọi ngoài cổng. Tôi nhanh nhảu tình nguyện thay mặt chủ quán ra hẹn với khách 3 giờ chiều hẵng trở lại, nếu chiều không tiện thì hẹn 8 giờ tối.
    Tốp khách lên xe ô-tô con phóng đi. Tôi trở vào, đã thấy ông Tư Hiền bế cậu Tuyến đặt nằm thẳng cẳng trên chiếc giường có đệm mút, phủ "ra" trắng. Ông Tư Hiền lần ngón tay bấm vào cái huyệt nào đó dưới gan bàn chân Tuyến, đắp cho cậu ta tấm chăn mỏng rồi mới trở lại chiếu tiệc.
    - Chú này đi Tây đi Tàu mà tửu lượng xoàng - ông Tư Hiền nói - Nhưng yên chí. Ngủ một lúc dậy lại khỏe như không. Khách đến đây chẳng mấy tay về ngay được đâu.
    Cũng nhờ cảnh báo ấy của ông chủ quán, tôi cố hết sức giữ cho đầu óc tỉnh táo. Trong lúc ông Năm úc thu dọn chiếu tiệc, tôi ngồi uống trà cùng ông Tư Hiền, bắt qua chuyện khác:
    - Thưa bác - tôi gợi chuyện - Theo cháu biết người miền bắc ít khi gọi thứ thay tên?...
    Ông già điềm nhiên gật đầu: "Đúng thế".
    - Nhưng, vì sao tên của bác nghe lại rất miền nam?
    - À... chú muốn biết chuyện đó hả?
    - Thưa vâng.
    Ông già trầm ngâm một lát.
    - Tôi người tỉnh Hà Đông cũ. Còn cái thứ Tư, là cách gọi theo tôn ty trật tự của giới giang hồ. Trên giang hồ, tôi chỉ vào loại thứ tư thôi.
    - Vậy thứ nhất là ai?
    - Ông bị bọn Mỹ bắn chết rồi - đột nhiên ông già nói giọng miền nam - Bọn nầy tuy là giang hồ, nhưng ủng hộ Việt Cộng. Một lần đi diệt ác ôn, cả ổng và tui lọt vô ổ kích của mấy thằng cha cảnh sát. Vì có đứa phản...
    Ông già ngồi im rất lâu, hai bàn tay hộ pháp mân mê hoài bộ râu muối tiêu, khiến tôi bối rối biết mình vừa vô tình chạm vào một quá khứ sâu kín của con người này. Nhưng rồi ông Tư lại kể tiếp:
    - Bọn này vừa đỡ tay cho anh em biệt động thành, lại vừa sanh nhai bằng nghề đi cướp. Nhưng chú yên tâm heng. Tụi nầy chỉ cướp của, chớ không giết người. Cướp của người giàu, mà đều bao giờ cũng phải để lại cho họ ít nhiều đặng họ khỏi tuyệt đường làm ăn buôn bán.
    Tôi ngập ngừng:
    - Thưa bác. Bác đang nói chuyện trong nam?
    - Ủa. Tôi ngỡ chú hiểu rồi chớ! Cái giới tuyến Mỹ Diệm dựng lên, đối với giới giang hồ bọn tôi đâu có xá gì. Bà con ngoài mình nghèo khổ, lại còn giặc giã lu bu, mình sao nỡ tay. Vậy nên muốn mần ăn động trời, ắt phải vô trỏng.
    - Nhưng thưa bác...
    - Gì nữa?
    - Bác... bác "giải nghệ" hồi nào?
    - Ha ha ha. Chuyện đó dài, nhưng muốn thâu ngắn cũng thâu ngắn được. Cái dạo đằng mình tràn vô Quy Nhơn, chú ở đâu?
    - Dạ, cháu đang cùng đơn vị hoạt động trên lộ Bốn.
    - Vậy hả. Tôi thì từ Sài Gòn nhào ra Quy Nhơn. Giữa thời ly loạn, tính mần ăn một món lớn rồi thôi. Vậy là tôi nhằm trúng tiệm vàng "Âu- Mỹ", to nhứt Quy Nhơn hồi đó.
    Ông Tư Hiền ngừng lại, vớ cái hũ rượu còn để cạnh bàn trà, rót đầy hai chén. Ông đưa cho tôi một chén, và giơ cao chén của mình lên:
    - Sáng, là chuyện nhậu có khách có chủ, kẻ bán người mua sòng phẳng. Còn giờ này là chuyện bác cháu mình bộc bạch tâm tình với nhau. Nào, ta cụng ly!
    Hai chén rượu được dốc cạn. Ông Tư Hiền rót thêm hai chén, nhưng bảo hai chén này đợi lúc kể xong câu chuyện:
    - Có mở đầu, phải có kết thúc. Phải không?
    Ông già trấn an sự nôn nóng lộ trên nét mặt tôi :
    - Sắp xong rồi đấy. Tôi lựa lúc trời nhá nhem tối, súng đạn ì ùng, người chạy loạn ngập đường, bèn lẻn vào tiệm vàng Âu- Mỹ. Đang hốt nào cà rá, dây chuyền, hạt xoàn bỏ vô túi thì có người thình lình bẻ quặt cả hai tay mình ra sau. Người đó hỏi: "ăn trộm hay ăn cướp, cha nội?". Cơ sự đã đến nước đó, còn chối cãi mà làm chi. Mình đáp: "Cướp. Bộ không thấy sao còn hỏi?".
    - Phải hỏi mới biết rõ trắng đen chớ. Ông định lấy hết tiệm của tui?
    - Lấy một ít thôi.
    - Còn một ít, để lại làm chi?
    - Để lại cho anh làm vốn.
    Hắn bật cười:
    - Muốn lấy hết thì lấy, nhưng phải theo một điều kiện.
    - Điều kiện gì?
    Hắn buông tay mình ra, hai đứa nhìn dằn mặt nhau.
    - Điều kiện là, ông phải đấu với tôi. Nếu ông thắng, tôi cho ông lấy cả.
    - Còn nếu thua, anh nộp tôi cho cảnh sát chớ gì?
    Hắn lại cười:
    - Còn đâu cảnh sát nữa mà nộp. Tụi nó dông hết trơn rồi.
    - Vậy thì sao?
    - Nếu ông thua, tôi sẽ biếu ông chút ít rồi mời ông đi kiếm nơi khác mần ăn. Được chưa, cha nội?
    Từ lâu tôi đã biết Bình Định là đất võ - lời ông Tư Hiền - Nhưng ngó bộ thằng cha này nhỏ con, người ốm nhách, mình gật đầu nhận đấu. Hai đứa đưa nhau ra vườn sau nhà hắn quần thảo một trận trời long đất lở. Lạ lùng một nỗi, mình tung ra độc chiêu nào là hắn đỡ lại dễ như không. Tới chừng mình thấm mệt, mồ hôi ướt lưng áo, hắn bảo:
    - Thôi huề. Đừng đánh nhau nữa. Thế gian không nên để mất hai kẻ anh hùng trong một ngày. Mời anh vào nhà uống nước ta nói chuyện...
    Tới đây, tôi như kẻ khát nước không sao dằn lòng được, đành lên tiếng giục ông Tư Hiền:
    - Rồi sao nữa. Thưa bác?
    Ông thong thả trả lời:
    - Sau đó, tôi với hắn kết nghĩa anh em.
    - Thật vậy ư?
    - Hắn nói: "Từ thuở tìm thầy học võ, tôi chưa từng được thử sức với người nào võ nghệ cao cường như quý anh". Còn tôi thì mắc cỡ mà nhận rằng tôi chỉ đáng bậc học trò của hắn. Thế mới là sự đời. Chú!
    - Nhưng, thưa bác. Cho cháu hỏi thêm một câu.
    - Thì cứ hỏi. Sao khách khí thế?
    - Thưa. Cái người nhận anh em kết nghĩa với bác, hiện giờ ra sao?
    Thấy ông Tư chưa trả lời, tôi nhắc lại:
    - Cái ông chủ tiệm vàng Âu - Mỹ ấy?
    Ông Tư vẫn im lặng, vớ cái hũ sành rót thêm một chén rượu đầy tràn, rồi cất giọng oang oang gọi xuống nhà dưới:
    - Chú Năm đâu rồi? Lên đây!
    Hình như ông Năm úc đang rửa bát đĩa ngoài mương nước. Ông vừa chạy vào vừa dùng vạt áo bà ba lau vội đôi bàn tay ướt.
    - Dạ. Anh Tư kêu em?
    Ông Tư Hiền chia ba chén rượu cho ba người. Với ông Năm, ông bảo:
    - Cụng ly đi. Rồi chú trả lời cậu này giùm tôi: Ông chủ tiệm vàng Âu - Mỹ giờ ở đâu?
    Sau khi uống cạn chén rượu, ông Năm úc chắp hai bàn tay vào nhau.
    - Dạ thưa cậu. Chủ tiệm Âu - Mỹ chính là tôi.
    Tôi bàng hoàng không tin ở mắt mình:
    - Trời đất! Sao lại có chuyện kỳ lạ này?
    - Dạ thưa cậu - vẫn lời ông Năm úc - chia tay với anh Tư tôi hôm trước, hôm sau lính Cộng hòa kéo tới đập phá, cướp hết tài sản của tôi. Xong, tụi nó đem chiến xa tới bắn sập nhà tôi. Bỗng chốc tôi thành tay trắng, vợ con không còn. Điêu linh, tan nát. Đang lúc tôi tính chuyện xuống tóc quy y nơi cửa phật thì nhận được tin anh tôi đã ra ngoài này...
    [/FONT]
     
    Smod_03 likes this.
  7. KDC

    KDC Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quê hương[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hoàng Phương Nhâm[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Một ông lão nông dân được người con thành đạt mời lên phố ở. Tại đây, cuộc sống tuy đầy đủ, tiện nghi song sự tù túng đã làm ông lão hiểu ra rằng, quê hương với cuộc sống giản dị, vẫn là nơi thích hợp nhất với ông.
    Đã ngót năm năm sống ở thị thành mà lão vẫn không sao quen được. Của đáng tội, nói là sống ở nơi phồn hoa đô hội đấy mà lão có được hưởng mùi của phố xá bao giờ. Gần hai ngàn ngày sống với dâu con và cháu nội, nhưng chưa bao giờ lão ra khỏi cổng, mà có ra thì cũng đố có dám đi đâu, vì ở phố đường ngang ngõ dọc cứ như bàn cờ nên lão sợ không biết lối về. Lão thèm cái không khí nhà quê, thèm được ngồi trên ổ rơm cạnh bếp lửa với nồi khoai lang luộc bốc hơi nghi ngút vừa thổi vừa ăn, hay cùng với vài ông bạn già trong tổ bô lão lội dọc đồng chăn dăm con vịt, quần xắn đến háng, cẳng chân đầy bùn đất, lúc nghỉ, gân cổ rít điếu cày kêu như thổi sáo, phải nghi ngót dạ, say lử đử nằm lăn trên cỏ. Nghĩ sao mà sướng cái đời! Lão chỉ có độc một thằng con trai. Vợ chồng lão quý hơn vàng, hết lòng chăm chút, nhờ cậy người xin cho nó được theo học ở những nơi tốt nhất huyện, nhất tỉnh, tốn kém bao nhiêu cũng không ngại. Được cái, nó cũng không phụ công vợ chồng lão. Càng ngày lão càng nhận thấy nó giống lão: cẩn thận, chăm chỉ khôn ngoan và hiếu đễ, nhưng cái nết khôn ngoan của nó thì hơn đứt lão. Cái tư chất thông minh sáng láng của nó thì lão không có, cái đức ấy là của trời cho. Thật, đúng là trời cho, chứ mấy đời nhà lão chí có "mo cơm tấm, ấm ổ rơm" là tuyệt đỉnh. Còn nó, khi thi vào đại học, nó cũng tự chọn lấy, xin việc nó cũng tự xin lấy. Nó chỉ nhờ lão "lấy" cái ao cá và một con trâu cày gói thành một gói bé bằng đầu ngón tay đưa lên cho nó thôi. Khi nó có ngành có nghề rồi lão khuyên nó về làm việc ở huyện cho gần nhà thì nó lại xin với lão cho nó ở lại thành phố. Nó tính với lão toàn những nước hay, đến khó tính như vợ lão cũng chiều theo nó. Rồi nó lấy vợ, đẻ con. Vợ chồng lão lại đùm dúm những thứ gọi là quý ở nhà quê lên chơi với con với cháu dăm bữa rồi về. Bà thì nhớ ông, ông thì nhớ bà, ở chơi lâu sao cho đặng. Mà dâu con lão thì nhiệt tình, lần nào cũng đưa đưa đón đón, nghĩ ông nghè ngày xưa cũng chả hơn lão mấy tí. Có hơn thì hơn ở cái quyền hành. Vài năm sau, vợ lão chán ở với lão, không ốm, chẳng đau, chẳng lời từ giã, tự dưng bỏ lão về với tổ tiên khiến lão như đứt từng khúc ruột. Sau đấy, cả hai vợ chồng thằng con lão năn nỉ, mời lão ra ở với chúng nhưng lão không nghe. Mồ bà lão chưa xanh cỏ. Lão không thể đi được vì quanh đây chỗ nào cũng ấm hơi vợ lão. Sợ lão buồn, mấy ông bạn già rủ lão chung nhau nuôi vịt. Cùng không để tâm nhiều đến lời lãi nhưng công việc là bạn bè làm cho lão khuây khỏa. Dần dần lão thấy vui, lúc nào cũng có bầu có bạn, đùm bọc, quý mến nhau, cùng chung một niềm vui, một nỗi lo âu và một sự vất vả nhọc nhằn với bầy vịt. Được ít năm, "thời" mở cửa thằng con lão bán một nửa nhà cho hãng điện tử nước ngoài và được họ mời liên doanh. Chao ôi! đùng một cái thằng con lão thành tỉ phú. Nó mua đất, xây nhà hàng, xây khách sạn và thuê người giúp việc. Nghe đâu, riêng cái khoản này mỗi ngày nó thu được bạc triệu. Nó bảo: "Bố ơi! Còn hơn vịt của bố đẻ trứng vàng". Và nó lại xây biệt thự để ở. Nó đón lão lên chơi, đưa lão đến thăm công ty liên doanh, đến thăm các nhà hàng với khách sạn của nó. Sự tối tân, hiện đại, xa hoa làm lão mụ mị cả người. Mấy lần lão lén cấu vào tai mình xem hư hay thực. Mệt bã cả người, cuồng hết cả cẳng mới đi hết một lượt. Thật còn tệ hơn lão lội ngang lội dọc xua vịt ở cánh đồng làng thẳng cánh cò bay. Con trai lão đưa lão về nơi ở của chúng thì thôi là "thôi rồi". Ngôi biệt thự ba tầng mái cong như mái đình, ngói lợp đều tăm tắp như vảy cá nằm hơi sâu vào trong ngõ, giữa một khuôn viên có vườn cây, bồn hoa và có cả một cái hồ nhỏ với hòn non bộ nước phun như mưa bụi suốt ngày đêm. Cả nhà đón lão ở phòng khách. Tiệc đã bày sẵn và cả đời, ơn trời, nhờ con, đến giờ lão mới biết mùi sâm banh. Lão được mời ngồi ở ghế chủ tiệc. Rượu chúc lão không ngớt. Và lão say. Lão nói với con: "Đời thật là nhất dạ đế vương con ạ! Đời bố thế này là mãn nguyện lắm rồi. Chỉ tiếc cho mẹ mày... " lão ngậm ngùi. Cả nhà ngậm ngùi. "Thôi thì bà ấy cũng mát lòng nơi chín suối!".
    Con dâu kính cẩn nâng bàn tay gầy guộc, khô nẻ của lão mà mủi lòng. Nó bảo:
    - Bố ơi! Vợ chồng chúng con đã tính kỹ rồi. Chúng con xin với bố, bố lên đây ở với con với cháu. Bố đã già rồi. Chúng con không gần bố lúc khuya lúc sớm được chúng con chẳng yên tâm. Thôi thì bố thương con thương cháu, bố nhé!
    Lão ngần ngừ:
    - Nhưng còn mẹ con ở quê...?
    Con trai lão đỡ lời:
    - Chúng con sẽ đưa bát hương của mẹ, cùng tổ tiên về trên này. Thôi thì các cụ đã có câu: "Con cái ở đâu, cha mẹ Ở đấy".
    Hai đứa trẻ hùa theo:
    - Ông về ở với chúng cháu ông nhé! Ông sẽ kể chuyện nhà quê, chuyện bà nội cho chúng cháu nghe. Bố cháu kể không bao giờ hay bằng ông kể đâu ông ạ! Ông ừ đi ông! Ông ừ đi!
    Lão ôm hai đứa trẻ vào lòng, mắt dân dấn nước.
    Thế là ngày hôm sau, vợ chồng thằng con lão đánh xe về làng, đến chiều hôm sau nữa chúng mới ra. Chúng kính cẩn rước linh vị, bát hương bà lão và tổ tiên lên thờ ở một phòng trên tầng ba. Lần này chúng mời cụ đồ Văn, thầy cúng lâu năm ở làng lên làm lễ. Thế là lão cũng yên tâm rồi. Tuần sau con trai lão lại đánh xe đưa lão về chia tay với bà con xóm giềng, trong làng ngoài họ. Với mấy ông bạn già đã từng chia ngọt sẻ bùi với lão cùng đàn vịt ngoài đồng. Con trai lão gợi ý chỉ nên rút về những đồng vốn đã góp chung còn phần lãi dành biếu lại mấy ông bạn. Lão cho là phải. Bạn lão thì thấy như thế là thiếu công bằng nên khi lão lên xe họ chọn gần chục đôi vịt ngon nhất gọi là chút quà quê nài ép bố con lão phải nhận. Lão cố nén để khỏi phải chia tay mọi người trong nước mắt. Hôm sau lão đau ê ẩm cả người không biết là vì xe xóc hay vì ngủ trên giường đệm. Chao ôi, cái giường thế mà cũng gọi là giường. Mỗi lần lão ngồi xuống nó cứ hụt hẫng đi đẩu đi đâu, khiến lão thót cả ruột gan lại, mãi vẫn chưa quen được. Nằm xuống xư như có người ôm, khó lăn đi lăn lại. Cái ổ rơm ở nhà quê lão lại thấy hay, cứ việc trở mình, lăn qua lăn lại thả cửa. Tối hôm ấy, khi cơm nước đã xong con dâu lão dẫn một người đàn bà chừng ngoài ba mươi tuổi đến giới thiệu với lão:
    - Bố ơi, đây là chị Hoài giúp việc nội trợ trong nhà ta, những lúc con đi vắng có cần gì, bố cứ bảo chị ấy, bố nhé!
    Người đàn bà kính cẩn cúi chào lão còn lão thì hơi ngớ người. Thì ra chị ta là con sen trong nhà này. Ô, thì ra con cháu lão đã có con sen, thằng quýt hầu hạ. Mà cũng phải. Dâu con lão còn phải quản lý một cơ ngơi to như thế, còn đâu thời gian để lo việc bếp núc, giặt giũ trong nhà. Thuê người ăn kẻ ở là phải. Nhưng, lão hơi bị hụt hẫng. Lão cứ tưởng rằng con cháu lão cần lão giúp đỡ những việc này. Tuy tuổi đã ngót nghét bảy mươi nhưng lão là một lão nông chi điền, sức lực còn hơn chán vạn kẻ chưa đến tứ tuần ngồi cạo giấy ở công sở. Thế mà... nhưng rồi lão tặc lưỡi: "Thì nghỉ cho khỏe, cho sống được lâu. Cả đời ta vất vả nuôi con đến ngần này rồi, được hưởng đôi chút lộc trời kể cũng phải thôi". Sợ lão buồn, con lão mua về nào là cây cảnh, nào là thú quý bày la liệt trong vườn. Vào ngày nắng đẹp chim chóc đua nhau hót ríu ran, nghe vui tai ra phết. Những ngày đầu, sáng nào lão cũng dậy sớm, nhưng rồi dậy sớm cũng chẳng để làm gì khi con cháu lão chưa dậy. Dần dần lão quen nằm ì trên giường đến khi chị bếp mời đi ăn sáng lão mới uể oải trở dậy. Vậy mà người lão tự nhiên cứ có cảm giác bải hoải, xương cốt đau ê ẩm. Khỉ vậy, khổ sở vất vả như dạo nào thì lại khỏe như vâm. Cả ngày chỉ có một mình lão với chị bếp ở nhà. Mà chị bếp thì luôn chân luôn tay, không thấy đứng đâu ngồi đâu. Dâu con thì đến công sở, hai đứa cháu thì đi học. Chúng đi cả ngày chỉ đến chín hay mười giờ tối chúng mới lục tục kéo nhau về. Cả nhà lúc ấy mới ngồi vào bàn ăn bữa tối. Trong bữa ăn bao giờ chúng cũng có dăm ba câu vấn an sức khỏe của lão, rồi đứa nào về phòng ấy xem tivi. Phòng nào cũng có tivi. Cả phòng lão cũng vậy. Lão cũng đành phải về phòng mình, nhưng lão đã chán cái tivi lắm rồi. Ngồi xem tivi lão phải nghe những người ở trong ấy thay nhau nói còn lão thì không được nói. Thậm chí, có lúc nghe họ nói những câu lão cho là không phải, lão tức mình cãi toáng lên họ cũng chẳng chịu dừng lại để nghe mà cứ thao thao bất tuyệt. Cứ thế, lặp đi lặp lại, ngày nào cũng như ngày nào, lão buồn, đâm ra nhớ làng, nhớ quê đến phát điên lên được. Lão thấy thèm nghe cái tật hắng giọng liên mồm của ông già Toét, cái thói hay văng tục của lão Lái. Lão ta văng tục cả những lúc vui và lúc buồn. Và trong một lần ngồi ăn tối, lão đã kể cho con cháu nghe cái thú của lão khi ăn khoai lang luộc, cái thú khi say thuốc lào. Lão kể mà tưởng như mình đang được hít hà vị thơm của khoai lang ở rổ khoai nghi ngút nóng của vợ lão vừa đổ từ trong nồi ra. Không nén nổi, lão nuốt nước bọt đánh ực một cái làm hai đứa trẻ cười ngả nghiêng. Sớm hôm sau dậy, chị bếp bưng đến cho lão đĩa khoai luộc còn nghi ngút khói. Lão ăn với vẻ háo hức của một kẻ được gặp lại cố nhân. Vậy mà sao chả thấy ngon. Lão thất vọng nhìn mấy củ khoai tròn trĩnh, cắt đầu cắt đuôi nằm chỏng chơ trên cái đĩa sứ trắng muốt. Lão lại lững thững về phòng. Lão thấy ngay cái điếu cày, gói thuốc lào Tiên Lãng và bó đóm nhỏ đặt trong một cái sọt bằng nhựa đỏ. Lão hờ hững cầm lấy cái điếu thuốc tra rồi châm lửa hút. Cái điếu thật kêu, thuốc thật ngon mà lão không say được. Lão thờ thẫn bước ra ban công nhìn xuống khuôn viên. Có gì đó làm lòng lão buồn tê tái. Lão chợt dừng lại nhìn kỹ cây đào phai trồng trong vườn. Cây đào đã lấm tấm nụ. Lão giật mình. Trời ơi! Lại Tết nữa rồi. Lão nhớ đến mấy cái Tết vừa rồi bố con lão đi chúc Tết vài nơi nó cho là quan trọng. Ở đấy họ kính cẩn chào lão, lễ phép hỏi thăm sức khỏe lão, lắng nghe lão trả lời rồi họ lại hàn huyên với nhau những điều mà lão không hiểu. Đôi khi họ còn xổ ra tiếng Tây cả tràng lão lại thấy mình vô duyên, quá thừa thãi. Ở chỗ nào cũng thừa thãi, ngày nào cũng thừa thãi. Lão thấy như mình không còn thực sự sống. Lão hưởng thụ mọi thứ đều được người ta dâng đến tận nơi. Lão sợ Tết đến, nó lại diễn ra như mọi năm. Ước gì lão được ăn Tết ở quê với những người quen cười to, nói to, được cùng mấy ông bạn già hút thuốc lào kêu như thổi sáo và say lử đử lăn lóc ngả nghiêng trên cỏ, được ăn bánh chưng với thịt mỡ với dưa hành, cái giống hành tía, nén bẹp ra rồi mà còn cay xè đến chảy nước mắt qua hàng. Một ngày cuối năm, chợt thấy xích lô chở chị bếp về đỗ ngoài cổng sắt, lão gật gù. Phải rồi, lão có cách. Lão rón rén vào phòng, cài chặt cửa. Lão lục trong tủ lấy dăm chục ngàn trong số tiền người ta biếu lão từ mấy Tết trước, cho vào túi rồi kiếm cái bút và mảnh giấy, với trình độ "diệt dốt" của mình lão vã mồ hôi hột mới để lại cho dâu con được ba chữ. Rồi hai tay đút túi lão thong thả ra khỏi phòng. Lão bảo chị bếp:
    - Mở cổng cho ông ra quán mụ béo một tí rồi khóa lại, lúc nào về ông gọi!
    Chị bếp kính cẩn:
    - Vâng, thưa cụ.
    Lão đàng hoàng đi thẳng ra đường phố tìm một chiếc xích lô. Ngồi trên tàu nghe tiếng điếu cày reo lách tách, lão choàng dậy chìa tay xin mấy gã đàn ông bên cạnh. Một gã vê thuốc bỏ vào điếu và châm lửa cho lão. Lão hào hứng gân cổ hít một hơi rõ dài gần như nuốt cả khói mãi sau mới ngửa cổ phun ra hai lỗ mũi. Lão say, đầu lão ngất ngư theo nhịp tàu. Về đến đầu làng, lão cởi phắt quần áo dài quấn lên cổ rồi lội ào xuống ruộng, vục hai tay sâu vào trong bùn và đứng lặng rất lâu. Cái lạnh cuối năm với lão thật chẳng thấm vào đâu.

    [/FONT]
     
    Last edited: May 27, 2012
    Smod_03 likes this.
  8. KDC

    KDC Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quán nhớ[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Ngọc Tư[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trong đám bạn nhỏ cùng xóm, lớn lên tản mác, chỉ nó là người đi xa nhất, cách núi sông đã đành, mà còn cách biển, bên này bên đó không thể cùng lúc ngắm mặt trời lên. Lâu lắm nó mới về, nó bảo, bây giờ xứ mình cái gì cũng khác, nhờ có tình bạn tụi mày mà tao còn biết đường về, nhờ một thứ nữa là cái tiệm tạp hóa của dì Hai, may, cứ nhìn tiệm đó mà tao không lạc.

    Lối sống văn minh không làm nó quên tiếng tiệm ngày xưa, ngày mà cả nó và tôi còn nhỏ xíu, ngày nào má nó cũng kêu thằng Út ơi, thằng Út à, chạy lại đằng tiệm mua giùm má ít đồ. Bữa sáng chạy ra mua tương mua củi về nấu bữa cơm sớm cho má nó lót lòng đi làm phụ hồ, ba đi đạp xích lô, trưa cả hai người về, cho đỡ mệt. Chiều xách chai mua dầu về thắp đen, bữa nào ba nó vui, muốn nhâm nhi với mấy ông bạn, nó đong thêm xị rượu. Nó biết đi tiệm mua đồ từ lúc còn chưa biết mặt của mấy tờ giấy bạc, ở nhà đưa tiền, nó chạy lại xòe tay ra mấy tờ bạc bèo nhèo đưa dì Hai, “má con dặn mua hết bi nhiêu đồng muối”. Dặn mua ít món còn nhớ, dặn nhiều nó phải vừa đi vừa nhẩm, gặp cái chạc cây, vấp ngã, quên mất, lại phải mếu máo chạy về hỏi lại. Ở nhà sai biểu cái gì còn mê chơi, dùng dằng chứ bảo đi tiệm là nó te tái đi ngay, mua món đồ còn dư một vài trăm, thể nào dì Hai cũng thối lại bằng mấy cục kẹo chanh, kẹo dừa xanh xanh đỏ đỏ, ngọt dai dẳng cả một tuổi thơ của đám con nhà nghèo.

    Tiệm tạp hóa của dì Hai cất dửa mé sông, nhà nhỏ, hàng hóa chất đầy ra lối đi, treo lùm đum líu đíu không thấy được đầu người. Nhỏ vậy, chật chội vậy mà dường như hỏi món gì cũng có, gạo củi mắm muối thì nói gì, tiệm có cả những thứ năm thì mười họa mới bán được một lần. Chen chúc nhau những kệ cao kệ thấp, thùng nhỏ, thùng to, hủ sành, hủ mủ… không có cái thứ tự nào cho món lớn nhất như sịa nia thúng mủng, nhỏ nhất như cục đá lửa, cái dao lam… Bạn tôi nói với tôi rằng, mười mấy năm qua, mỗi lần bước vào những siêu thị hàng hóa bày bán hào nhoáng, nó vẫn thường nhớ tới tiệm của dì Hai, nó nói có một cái gì đó đầy sự sống, ấm áp trong cái quán bề bộn, hỗn độn của dì. Nên nhớ nhiều lắm. Nhớ đùm cốm gạo treo trên vách, mấy cái keo đựng bánh kẹp, bánh men, cái diệm đựng củ cải muối để kế bên rổ hột vịt, ở góc nhà là thạp đường mía vàng ong óng, một lần nó lén lấy tay múc thử, dì Hai rầy, “cái thằng sao ở dơ ở dáy vậy con, sao không nói để dì lấy dao xắn cho”. Nó còn nhớ nắp đậy trên cái lon đựng tiền lẻ của dì lúc nào cũng dính dâm dấp bột gạo, bột củ năng. Qua bao nhiêu năm rồi, nó vẫn thắc mắc, tự hỏi, làm sao dì nhớ rành vị trí từng thứ hàng hóa trong tiệm của mình, để người ta hỏi cái gì, dì lẹ làng, phăm phăm lôi ra ngay thứ ấy, mà từ cái chỗ đôi khi ta không ngờ tới. Tôi cười, với dì, cái tiệm đó có một trật tự riêng, tụi mình không biết được đâu.
    Bởi dì đã mở tiệm hàng này từ lúc chúng tôi chưa được sinh ra. Có vài ba cái tiệm như thế cho xóm lao động nghèo nhưng không có cái nào lâu đời như tiệm của dì. Mỗi gia đinh trong xóm nhỏ nầy, ai đi ai đến dì rành hết thảy. Buôn bán lâu năm, dì còn thuộc nết ăn, xài từng nhà. Như cậu Ba chỉ thích ăn bí hầm dừa với đường mía, vừa ngọt vừa thanh, dì Chín mê món cháo trắng ăn với cải xá bấu, sáng nào cũng nấu, nhà mợ Bảy thích xài xà bông bột hơn loại kem… Với cư dân trong xóm, khi đã vượt qua được đận cơm ngày hai bữa thiếu trước hụt sau, ai cũng tự hỏi, hồi đó sống sao được nếu vắng những tiệm buôn bán lẻ trong xóm mình ha. Làm ngày nào đủ chi ngày ấy, đủ hai ký gạo, hai trăm đồng muối, năm trăm đồng đường, với bột ngọt, tương, chao… lắt nhắt, vụn vặt, không người bán biết mua ở đâu. Rồi mấy đứa con gái đểnh đoảng như tôi vất vả biết chừng nào, đôi khi không lấy được chồng chứ hỏng phải chuyện chơi, vì lâu lâu vô bếp một lần, đang nấu canh, kho cá, tá hỏa lên trong nhà hết đường hết muối, sai đứa con nít chạy lẹ ra tiệm mua về nêm vẫn kịp, thiệt hú hồn, may quá. Lớn lên, xa nhà, đi rày đây mai đó, nhớ về xóm cũ, từng cái cây ngọn cỏ, con đường dường như mỗi thứ đã trở thành một phần đời… Cả cái tiệm tạp hóa bình dị, mộc mạc của người đàn bà góa chồng hiền hậu mà cả đời chẳng đứa nào quên tên gọi: dì Hai.

    Nó lại thăm, dì Hai than lúc nầy già cả rồi, con mắt ngó không thấy đường, đêm nào cũng nghe đau nhức mình mẩy. Dì nắn bóp tay nó (cái bàn tay chuyên môn lén quẹt đường mía ăn), khen lúc nầy con lớn quá, mập ra. Nó cười, thì mười mấy năm rồi còn gì, xóm xưa trở thành phố thị, hàng quán tíu tít mọc lên. Mọi thứ đã đổi rồi, sao dì với tiệm của dì không thay đổi gì hết vậy? Dì Hai cười, nếu cái gì cũng đổi hết thì bây biết đường đâu mà về.

    Tôi thấy chút xíu nữa nó đã rớt nước mắt. Nó nén lòng, mếu máo cười, bảo, “Lâu quá, hỏng ăn kẹo của tiệm dì Hai, dì bán cho con năm trăm kẹo đi, dì!”. Dì cười, “Cái thằng, buôn bán gì, lâu lâu con mới về, dì đãi”, rồi dì lụm cụm lấy cho nó một vốc kẹo dừa.

    Hồi xưa nó cũng chỉ mê mỗi món kẹo dừa, mê tới mức cả hàm răng sún hết trọi.
    [/FONT]
     
  9. KDC

    KDC Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quê hương[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đặng Văn Đại[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi đạp xe tới nhà nhỏ. Hôm nay là buổi học cuối cùng cuả nhỏ trước khi tôi nghỉ hè.
    Nhỏ pha cho tôi ly nước.
    - Hôm nay thầy đến sớm thế thầy?
    - Ừ, sớm. Mai thầy về quê, nhỏ được nghỉ hè, sướng nhé!
    Nhỏ ngạc nhiên:
    - Ơ... Mai thầy về quê... thật à?
    - Thật.
    Nhỏ buồn xo, ghếch cằm trên hai bàn tay đặt trên bàn, như một chú mèo con.
    Tôi bảo: "Giải bài tập nhé?". "Hôm nay bé muốn học văn cơ". Ô lạ thế. Ngày thường nhỏ sợ học văn lắm kia mà!". "Bé muốn nghe thầy nói về quê hương thầy".
    Hồi đầu tiên nhỏ hỏi: "Thầy không phải là người nhà quê chứ?" Tôi cười: "Thế mà là phải đấỵ Quê thầy làm ruộng. Dưới ruộng có điả. "Nhỏ rụt cổ, mặt mày xám xanh và lắc đầu lia liạ: "Bé không tin, bé không tin..." Nhỏ bảo tôi giống anh Hai nhỏ, mà anh Hai nhỏ thì ở đây, ở thành phố này nên tôi cũng phải là người thành phố này|... Bây giờ thì nhỏ tin thật rồi vì Nhỏ bảo: "Vì thầy là người cuả quê hương vua Quang Trung và vua Quang Trung cũng ở nhà quê". Tôi bật cười vì cách nghĩ ngộ nghĩnh cuả bé. Té ra là vậy! "Vì sao thầy cườỉ" "Vì không nhịn được". Nhỏ cũng cười theo.
    Ồ, quả thật nhỏ làm tôi lúng túng. Nói về quê hương à? Nhỏ ngồi nguyên như cũ, cằm ghếch trên hai tay, mắt mở to chờ đợi...
    ... Nhỏ sinh ra ở thành phố, làm sao nhỏ có thể hình dung được một cảnh làng quê nông thôn qua lời kể cuả thầỷ Có lần nhỏ hỏi tôi, giọng như mếu đi: "Thầy ơi, bé không có quê hương hả thầỷ" Tôi ngạc nhiên: "Sao thế?" Bé đưa tôi đọc bài "Bài học đầu cho con" cuả nhà thơ Đỗ Trung Quân. À, thì ra quê hương ở đây chỉ có hoa cà hoa bí, có cánh đồng có cánh diều, có hương cau, hương bưởi... mà không có nhà văn hoá thiếu nhi, không có chiếc đu quay cuả nhỏ. Tôi chật vật lắm mới làm cho nhỏ hiểu và yên tâm rằng nhỏ cũng có... quê hương, song nhỏ bảo vẫn thích quê hương có cây khế ngọt, có bướm vàng bay hơn. Ồ, tâm hồn nhỏ gần với thiên nhiên quá. Có gì đâu, từ thuở hoang sơ nguyên dã con người được sinh ra trong khung cảnh thiên nhiên mà. Mẹ thầy bảo hồi thầy được sinh ra dưới một căn lều lợp lá, bên dòng sôn Lại và dãy núi Đá Bàn. Đó là một dãy núi đá chất ngất hùng vĩ, một nhánh cuả dãy Trường Sơn. Ngày xưa vua Quang Trung cũng có lần cất quân đi qua đấy. Con sông Lại quê thầy hiền hoà đem lại vị ngọt cho rừng dưà Tam Quan mà có lần thầy kể cho nhỏ nghe rồi đó. Hiền hoà là thế mà mùa mưa con sông hung dữ lạ thường: lũ-lụt, dòng nước đỏ ngầu cơn thịnh nộ.
    Chắc nhỏ không làm sao hình dung nổi cái khắc nghiệt cuả mảnh đất miền Trung quê thầy đâu nhỉ... Tháng sáu tháng bảy này trời nắng đến cháy thịt cháy da, ngày đông mưa dầm mưa dề thúi trời thúi đất.
    Muà này được cơn mưa dông là má thầy mừng lắm đấy. Hồi nhỏ thầy ở nhà hai bàn tay chai sần vì vết gàu sòng tát nước khi trời hạn hán. Trời mưa, thầy lắng tai nghe nươ"c nhỏ lanh tanh dưới hiên nhà.
    Rồi thầy không còn vui khi nghe giọt mưa rơi lanh tanh nưã khi biết giọt mưa rơi trên áo tơi mẹ ngoài đồng cũng có cùng âm thanh như thế.
    Em gái thầy hồi đó như nhỏ bây giờ, thích mưa lắm. Hai anh em lội bì bõm trogn mưa, xếp những chiếc xuồn bằng giấy thả trôi trên con mương nhỏ trước nhà. Con thuyền tuổi thơ trôi qua và không hề trở lại. Có lúc bỗng dưng thầy thèm được bé lại như nhỏ bây giờ chẳng hạn. Muà lũ nước lên cao, mẹ thầy phải cõng thầy đi học. Chiếc áo mưa chỉ che đủ phần thầy nên da mẹ nước đẫm nhợt đi, vậy mà hơi ấm từ mẹ như còn cố chuyền sang thầy nưã. Này, nhỏ hiểu không: Mẹ thầy cũng là quê hương đấy!
    Tháng Sáu, những cơn mưa dông đổ xuống, ve hát ran lên và hoa phượng cháy đỏ cả trời. Quê thầy bây giờ cũng là muà hoa trái chín. Cây ổi nhà thầy trái mượt thơm lừng. Thầy theo đám trẻ chăn trâu thơ thẩn lên đồi thả diều, hái sim. Những quả sim chín mọng tròn căng và ngọt lừ. Buổi chiều nắng tắt, hoa dủ dẻ toả hương bát ngát. Thầy hái hoa bỏ vào túi áo, sáng sau dậy vẫn còn thơm.
    Bọn con gái lớp thầy hồi đó (như nhỏ bây giờ) cũng biết "xí xọn", ướp hương dủ dẻ vào áo quần khi đến lớp. Mùi dủ dẻ mộc mạc đằm thắm. Tan trường, khắp nẻo đường làng nón bài thơ làm dáng nghiêng nghiêng...
    Bất chợt một cơn mưa đổ xuống. Cơn mưa ở Sài Gòn phóng túng và khoáng đạt. Dáng nhỏ ngồi xiêu về phiá trước. Có phải những bụi nước ngoài kia đâụ vào mắt nhỏ không?
    - Mai thầy về nhé!
    Giọng bé chùng xuống, buồn như mưa
    - Rồi thầy lại dạy em nưã chứ?
    Tôi gật đầu. Tôi nhìn bé rồi nhìn cơn mưa.
    [/FONT]
     
  10. KDC

    KDC Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quê mẹ[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lê Thanh Hải[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chiếc máy bay Boing 767 chui ra khỏi đám mây trắng, từ từ đáp nhẹ xuống đường băng sân bay Tân Sơn Nhất. Cái nóng hầm hập của buổi trưa hè không làm giảm bớt được nỗi háo hức chờ đợi của những người đi đón. Họ xôn xao bàn tán, chen lấn giành chỗ đứng gần cái hàng rào thấp ngăn trước cửa ra, để được là người đầu tiên trong gia đình nhìn thấy người thân xuất hiện sau cánh cửa kính.
    Xách cái túi du lịch cũ kỹ với chiếc ba lô nhỏ khoác hờ trên vai, một chàng trai trạc hăm lăm lững thững bước ra đường, để lại sau lưng những cặp mắt tò mò trong đám đông người đi đón chuyến bay từ Amsterdam đến.
    - Anh về đâu vậy ? - Cậu tài xế trẻ nổ máy chiếc xe Toyota rồi quay lại hỏi Hùng.
    - Tới khách sạn đi.
    Hùng trả lời không chút suy nghĩ. Có còn người thân nào ở đây đâu mà về. Nếu có thì đã gọi điện cho người ta ra đón rồi. Khẽ mỉm cười, Hùng nghĩ thầm, khùng thật, về tới Việt Nam rồi mà vẫn chưa biết được là để làm gì.
    Bạn bè ở sở làm đặt tên cho Hùng là "Violon", tại tính anh lúc nóng lúc lạnh giống y như là cây đàn violon. Trong những lúc bốc đồng, Hùng sẵn sàng làm ngay ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu. Chuyến đi về Việt Nam lần này cũng vậy. Xem cuốn băng Thúy Nga Paris Mùa Xuân Nào Ta Về, thấy ông nhà văn chê mình không biết diều bì, tam cúc, tiểu thuyết lụa đào là cái gì, Hùng nổi máu anh hùng đi xin visa rồi mua vé máy bay về Việt Nam chơi hai tuần cho biết.
    - Tới nơi rồi anh Hai. Khách sạn Cửu Long này mới sửa lại đó.
    Phòng Hùng thuê nằm hướng ra bờ sông Sài Gòn. Anh mở cửa sổ nhìn xuống bến Bạch Đằng. Xe cộ ồn ào, tiếng người cười nói huyên náo làm anh nhớ tới ký ức thời trẻ thơ.
    Nhà Hùng xưa ở khu cư xá ngân hàng nằm dưới chân cầu Tân Thuận. Hai mẹ con sống trong căn nhà nhỏ nằm khuất sau đám hoa giấy leo phủ kín tường. Hôm "giải phong" vô, Hùng còn chạy đi coi đánh nhau. Máy bay quần đảo ầm ĩ trên trời suốt mấy bữa, tiếng súng nổ khắp mọi nơi. Vậy mà đi bộ rã cả chân, thằng Hùng cũng không thấy chỗ người ta bắn nhau, chỉ thấy dân chúng đổ xô đi hôi của ở mấy nhà người di tản. Thôi thì đủ cả, quạt máy, tivi cho đến cả mấy bộ xa lông to cũng được đổi chủ. Về tới nhà thì bị bà già chửi một trận nên thân, sợ thằng con đi đạn lạc chết bất tử ngoài đường ngoài chợ. Chán đời, nó bỏ nhà chạy ra bờ sông ngồi chơi, tự nhiên thấy có một cái xà lan chạy qua. Ai đó gọi: "Ê thằng nhỏ, có đi thì leo lên đây, ở lại cộng sản vào bắt tụi mày đi bộ đội đó". Thằng nhóc hơn mười tuổi, trên người chỉ có mỗi cái quần sà lỏn, nghe thấy hai chữ "bộ đội" giống như bị dọa ma vậy, nhảy qua mấy cái ghe đậu sát nhau, phóng như con sóc sang sà lan đi tuốt ra ngoài cửa biển, rồi đổi lên tàu lớn, lênh đênh chỗ này chỗ kia một hồi rồi cũng tới được Bắc Âu, là nơi mà nó được người ta cho ăn, cho học, bây giờ là một chuyên viên thiết kế có hạng của công ty.
    Nói thiệt ra lên tới sà lan ngồi một hồi rồi thì nó cũng đỡ tức má nó, muốn quay về nhà nhưng phần vì sợ bộ đội (?), phần biết lấy gì mà quay lại. Cửa biển rộng mênh mông, sóng cao mút mùa, làm sao mà nó dám nhảy xuống bơi vào bờ. Báo hại bà mẹ già mấy năm ròng cứ tưởng là thằng con út rồi cũng chết súng chết đạn như mấy thằng anh nó.
    Sau bữa nó đi thì má nó tìm hoàn, cúng kiếng suốt mấy năm trời. Tốn bao nhiêu công sức, tới lúc buông tay dựng bàn thờ thì lại nhận được cái thư thằng Hùng gửi về báo tin, kèm theo tấm ảnh chụp nó ăn mặc chỉnh tề đứng giữa một bọn Tây trắng. Ở đời âu cũng là duyên số, hồi lúc lên tàu sang đây nó còn nhỏ quá, có biết địa chỉ với gửi thư là gì đâu. Lúc đó nhớ nhà lắm, nhưng mà nó đâu có biết làm sao. Tự nhiên bữa kia có một ông già người Việt tới trường tìm Hùng, hỏi thăm một hồi rồi nhận là lúc trước có làm chung sở với má nó. Ổng kêu lấy tờ giấy ra biên thư, rồi nói nó lựa tấm hình nào ưng ý nhất đưa cho ổng để gửi về cho bả. Mừng quýnh, thằng Hùng chạy vội về phòng ngoái mấy chữ tiếng Việt đầy lỗi chính tả, quơ đại tấm ảnh để trên bàn học, chạy ra đưa. Sau này Hùng mới biết là hội từ thiện, chỗ người ta nhận nuôi, tìm hoài mới ra một người hồi trước cũng làm ngành ngân hàng. Tại trong bản khai nó nói là má nó làm ở ngân hàng, có điều không biết là ngân hàng nào. May sao lại đúng chỗ ông này, cho nên tìm lại được địa chỉ và nối lại liên lạc.
    Ổng tên là Hùng, nó kêu bằng chú. Bây giờ ông nghỉ hưu rồi, lâu lâu rảnh nó cũng tới thăm vợ chồng ông với mấy thằng con phá như quỉ sứ, ăn bữa cơm rồi ngồi xem mấy cuộc băng video ca nhạc Việt Nam. Ở bên này mấy đứa nhỏ đâu có thích ngồi với bố mẹ xem mấy cái băng đó đâu. Nhạc gì mà chậm rì như máy quay đĩa cổ lỗ sĩ vậy, tụi nó thích đi boom, nhảy nhạc RAP hơn. Bởi vậy nên mỗi lần thằng Hùng tới chơi thì ông bà mừng lắm. Hai người con nó như con vậy, nếu có con gái chắc là đã gả cho nó từ lâu rồi.

    Chiều xuống, ánh nắng vàng len lỏi qua khoảng không giữa những ngôi nhà cao nằm cạnh bờ sông, làm vàng hẳn cả một đoạn đường đông nghẹt xe giờ tan tầm. Kể cũng lạ, xe hơi, xe xích lô, xe máy, xe đạp đủ cả, rồi mấy bà gánh hàng rong, người đi bộ dưới lòng đường chen lấn nhau, cái rẽ trái, cái quẹo phải, người chạy nhanh, kẻ đi chậm, vậy mà không thấy ai đụng vào ai hết.
    Về tới Việt Nam, nhìn cái gì Hùng cũng thấy lạ, thấy mới, giống như là đi du lịch vậy. Kí ức tuổi thơ của hai mươi năm trước giờ chỉ còn là một đoạn phim mờ nhạt nằm trong góc sâu nào đó của bộ óc nhồi nhét đầy những kiến thức của mười mấy năm học đường. Ở Hà Lan người ta nói đủ thứ tiếng Anh, Pháp, Đức... tiếng nào Hùng cũng nói sõi như người bản xứ, nhưng không có thứ tiếng nào làm cho anh thấy thân thiết cả. Tiếng Việt cũng vậy. Nhiều lúc anh tự hỏi không biết mình gốc ở đâu nữa.
    Một ý nghĩ chợt thoáng qua. Hùng đứng dậy xuống nhà đón xích lô đi về hướng Nhà Bè, trở về khu nhà cũ. Thật lạ, đã bao năm xa cách, vậy mà từ lúc xuống xe ở ngoài đầu đường cho tới lúc đứng trước cánh cửa sắt trước sân nhà Hùng không gặp khó khăn gì, cứ đi một mạch như ở nhà vậy. Khẽ bật cười, Hùng nghĩ, thật là ngốc, thì đây không phải là nhà mình sao. Hồi nhỏ mỗi ngày đi ra đi vô cả chục lần, làm sao mà quên lối được. Bước thêm một bước nữa đến trước cánh cửa, Hùng bỗng đứng sững người. Ngay chỗ góc sân hồi trước má nó hay ngồi giặt đồ là một cô gái tóc dài xõa ngang cũng đang ngồi trước một thau quần áo đặt dưới cái vòi nước cũ kỹ, mà hồi nhỏ bữa nào Hùng cũng bắt ống cao su vào phun nước tưới vườn. Mắt Hùng như nhoà đi, nhớ tới đoạn băng video quay hồi má nó sắp mất. Cố gượng chút sức tàn, má nó nhắc là phải lo học để tiến thân, rồi nào là phải nghe lời chú Hưng, rồi là sau này có lấy vợ thì phải lo cho người ta, chứ đừng có như ba mày... Càng nghĩ Hùng càng thấy thương cho má. Cuộc đời chỉ còn có mỗi thằng con út, vậy mà nó lại đi biệt tăm biệt tích, lúc mất không có lấy một người thân đưa tiễn.
    Hồi nó đang chuẩn bị thi tốt nghiệp thì má nó lâm bịnh nặng, hậu quả của mấy chục năm trời làm việc cực nhọc để nuôi mấy đứa con, cộng thêm mấy năm buồn khổ vì tưởng là mất thêm thằng Út. Má nó sợ ảnh hưởng học hành nên không báo gì, chỉ có thuê thợ về thu một cuốn băng video rồi nhờ người ta gửi cho nó sau ngày thành tài. Lúc vào đại học nó cứ nghĩ là khi nào học xong sẽ về ngay Việt Nam thăm má, nhưng từ lúc nhận được cuốn băng video cùng với cái tin má nó đã mất thì nó không còn muốn về chút nào nữa.
    - Cậu làm gì mà ngó dữ vậy ? Bộ tính ăn trộm gì trong nhà người ta sao hả ?
    Hùng giật mình quay đầu lại. Người vừa nói là một bà tuổi chừng năm chục, tay xách một giỏ rau giống như mới đi chợ về. Cô gái ở trong sân, chừng như bấy giờ mới biết là có người nhìn mình, ngượng ngùng đứng lên ra mở cửa.
    - Má mới về. - Cô khẽ chào bà, rồi nhìn Hùng thoáng nhịn cười.
    Ra vậy. Bà này là má cô kia. Còn mình, đứng đây để làm gì ? Biết giải thích sao đây ? Hùng lúng túng nói lộn xộn:
    - Dạ cháu..., cháu hồi trước,... dạ cháu mới ở Hà Lan về, dạ... dạ má con hồi trước sống ở đây. Dạ...
    - Thôi đi cậu ơi, bây giờ ai cũng xưng Việt Kiều hết. Ở bên kia đi làm cu li trong nhà hàng về đây khoe là giám đốc phụ trách đầu tư. Còn cậu - bà nhìn Hùng một lượt từ đầu đến chân - chắc cậu là giáo sư tiến sĩ nổi tiếng hả ?
    Tự nhiên Hùng thấy máu nóng dồn lên mặt, tức mà không biết nói gì. Không biết làm sao, anh bỏ đi một mạch ra ngoài đường đón xe về khách sạn. Đã vậy về tới nơi còn không tìm thấy chìa khóa phòng nữa, phải đứng gần mười lăm phút nghe ông già chỗ tiếp tân nhắc nhở nội qui khách sạn... Cuối cùng rồi thì cái anh chàng trẻ tuổi được cử xuống kho lấy chìa khóa dự trữ cũng đã quay lại. Hùng lên phòng xối nước một hồi cho hả giận, thay bộ quần áo khác rồi ra ngoài lan can ngồi ngó tiếp xuống đường.

    "Reng!"
    Ngồi chưa được bao lâu thì điện thoại trong phòng kêu vang.
    - Alô.
    - Cậu Hùng phòng 712, ở dưới này có một cô đang đợi gặp cậu, mời cậu xuống phòng khách.
    - Dạ cám ơn, cháu xuống liền.
    Khóa cửa phòng, Hùng cẩn thận bỏ chìa khóa vào túi chiếc áo khoác cho khỏi mất. Trong thang máy, Hùng tự hỏi không biết ai tới gặp mình. Mới xuống máy bay hồi trưa, còn ở đây thì đâu có quen ai. Hay là chìa khóa... ?
    Đúng vậy, ở dưới phòng khác, Hạnh - cô gái với thau quần áo - đang cầm chiếc chìa khóa Hùng giật mình đánh rơi mà không hay lúc bị má Hạnh "hỏi thăm".
    Hạnh bật cười, nhớ lại nét mặt ngố ngố của Hùng lúc trả lời, giống y hệt cái khuôn mặt bây giờ của Hùng đang ngơ ngác tìm kiếm trong phòng khách.
    Hùng nhận ra Hạnh nhờ nụ cười. Tiến lại gần, anh gật đầu chào và nói lời cảm ơn khi nhận lại chìa khóa phòng. Hạnh lại cười nhìn anh chăm chú như đang quan sát người từ hành tinh khác vậy.
    - Phải chi hồi chiều anh ăn mặc như vầy
    thì má em đâu có nói vậy. Lúc đó cái dáng anh giống y như là dân đào vàng trên cao nguyên. Quần áo xốc xếch lấm lem, còn xưng là Việt Kiều. Má em kêu em tới xin lỗi anh, còn ba em thì lúc về tới nha nghe chuyện liền "sạc" cho má một trận rồi nhắn là mời anh tới nhà chơi, chừng nào rảnh thì cứ ghé. Vậy thôi. Nhà em thì anh biết rồi, bây giờ em về, bye.
    Hùng vội vàng làm một cử chỉ gì đó như ngăn Hạnh lại, định hỏi cô câu gì đó mà vẫn chưa nghĩ ra, miệng cứ ậm ừ, còn mặt thì chắc là ngố lắm vì thấy Hạnh bật cười:
    - Anh muốn hỏi gì hả ? OK, em cũng chưa phải về ngay.
    Cho tới túc hai người đã ngồi yên trước hai ly trà Lipton nóng trong bar của khách sạn thì Hùng mới nghĩ xong câu định hỏi.
    - Làm sao mà cô, à xin lỗi, em biết là tôi sống ở đây ?
    - Em tên Hạnh, còn tại sao em biết là anh sống ở đây thì anh cứ nhìn cái chìa khóa là biết liền.
    Hùng cầm chiếc chìa khóa lên rồi à to như mới phát hiện ra được một nguyên lý gì đó mới mẻ lắm. Thật là ngu, chìa khóa dính vào miếng thẻ bài có ghi số phòng và tên khách sạn, có vậy mà cũng không nghĩ ra.
    - Tôi ngu quá, đơn giản vậy mà cũng phải hỏi. €, để cho công bằng, tên tôi là...
    - Hùng, năm nay hai mươi lăm tuổi, tiến sĩ nhưng không phải là giáo sư, hiện sống tại Einhoven, Hà Lan.
    Thấy mắt Hùng tròn xoe, Hạnh vừa nhịn cười vừa giải thích:
    - Ở ngoài kia kìa, chỉ cần mượn xem cái tờ khai anh viết ở chỗ tiếp tân là biết hết.
    Cứ như vậy, mấy hôm sau Hạnh đưa Hùng đi chơi khắp nơi, nếm đủ mọi món ăn mà bọn con gái cho là ngon. Trời đất quỉ thần ơi, mới vừa ăn miếng ổi chấm muối ớt cay xè đã phải thử ngay cục me chua còn hơn giấm nguyên chất. Vừa rời hàng chè đậu xanh ngọt lịm Hạnh đã lôi Hùng vào ngay quán gỏi ăn thử xem bò bía của bà Ba ngon hơn hay gỏi đu đủ của chị Năm đậm đà hơn. Nhưng thật tình mà nói, Hùng thấy mình cũng có "tâm hồn ăn uống". Anh không thể nào quên được cái cảm giác dễ chịu khi ngồi bên cạnh Hạnh, vừa ăn vừa nhìn Hạnh cười vui như trẻ nét. Hùng thích nhất món bột chiên, bữa nào cũng phải sang bên quận 3 ăn một đĩa rồi mới chịu về.

    Trưa chủ nhật, nhà Hạnh làm cơm mời Hùng. Căn nhà này họ mua lại sau khi má Hùng mất, tới nay cũng vẫn chưa sửa chữa thay đổi gì mấy. Bước vào trong, Hùng có cái cảm giác là lạ, y như là Tom Hanks trong bộ phim The Big, sau một sáng thức dậy tự nhiên thấy mình to cao hẳn lên, đồ đạc trong nhà cứ vướng víu, chật chội sao đó. Đôi chân đưa Hùng đi qua bếp, chui đầu vào cái kho nhỏ dưới gầm cầu thang mà hồi trước anh hay chui đầu vào và tưởng tượng mình có một căn nhà riêng trong đó. Bước vào phòng cũ của mình, Hùng chợt thấy lúng túng khi nhận ra đây là phòng của Hạnh bây giờ. Anh đứng thừ ra ngay trước cửa. Đang phân vân chưa biết phải làm gì thì Hạnh đã lên tiếng trước.
    - Anh cứ tự nhiên, em cũng đang định mời anh vào phòng em để kĩ sư thiết kế xem thử xem đồ đạc sắp xếp có hợp lý không.
    Hùng mỉm cười, trong bụng thầm khen Hạnh biết xử thế, hiểu được suy nghĩ của người khác. Phòng con gái thật khác xa với con trai. Ở đây không bừa bộn như trong căn phòng nhỏ của Hùng bên kia. Đồ đạc cũng khác nhiều: bàn phấn, tủ quần áo, gương to...
    Ngồi xuống ghế, ký ức tuổi thơ chợt đua nhau quay lại. Hùng nói nhanh như sợ quên mất, kể cho Hạnh nghe những thứ đồ chơi mà ngày xưa Hùng có. Nào trên giường lúc nào cũng bừa bãi những con thú nhồi bông, rồi trên tường đầy những tranh vẽ các chú chuột Mickey, Minnie, vịt Donald..., trong góc tường là tòa lâu đài bằng giấy với những chú lính chì, xe tăng, thiết giáp đặt xung quanh. Tất cả, Hùng càng kể càng say mê, lan dần sang những buổi sáng bớt tiền quà để mua vật liệu, keo dán và sơn về xây thành, đến những món quà bất ngờ mẹ Hùng mua cho là những chú lính chì với quân phục của các thời đại khác nhau...
    Một thoáng buồn vướng trên mặt Hạnh.
    - Bao nhiêu năm qua rồi mà anh vẫn nhớ những kỷ niệm thời thơ ấu. Tới giờ anh quay lại đây rồi thì không còn gì hết. Bức tường đã được quét vôi lại, còn đồ đạc thì không biết thất lạc nơi đâu.
    Suy nghĩ một hồi, Hùng chợt nhớ ra.
    - Có một thứ mà chắc chắn là vẫn còn.
    Kéo cái bàn học ở góc phòng ra, chỗ ngày xưa là tòa lâu đài giả, Hùng tìm miếng gạch lát nhà lúc t rước. Vẫn đây, không ai để ý là có một miếng gạch không có xi măng đổ vào kẽ hở như những miếng khác. Lấy đầu mũi dao khẽ nạy lên, Hùng chỉ cho Hạnh thấy một cái hố vuông nhỏ vừa đủ để đặt chiếc hộp kim loại có lẽ được làm từ vỏ hộp Coca-Cola, bây giờ đã rỉ sét hết. Bên trong hộp là một chú lính chì bị gãy đôi, trông vẫn như mới. Lớp sơn trên người chú vẫn còn lấp lánh như lúc mới mua về. Hạnh thích thú đợi Hùng giải thích.
    - Hồi trước lúc xây lâu đài có lần anh lỡ ngồi lên làm chú ta bị gãy đôi. Anh buồn quá bỏ cả ăn chiều lo cử hành tang lễ cho chú. Có đủ cả: kéo cờ, bắn pháo và quân đội tiễn đưa. em biết không, tất cả mọi sắc lính đều đứng nghiêm chào tiễn đưa, bất kể thế hệ, bất kể chiến tuyến. Có người lính nào khi chết lại được bên quân đối phương cử hành lễ chào đâu. Chú ta thật là hạnh phúc.
    Đậy nắp hộp lại rồi đặt vào chỗ chũ, Hùng để viên gạch lên như lúc trước rồi đưa tay lên chào vĩnh biệt như đã từng làm, trong lòng bồi hồi nhớ lại quang cảnh chiến trường hôm đó. Napoléon đứng cạnh Washington, quân đội Bắc Mỹ đứng xen lẫn với liên quân miền Nam. Xe tăng, pháo binh thôi không còn đối đầu nhau nữa mà cùng bắn pháo lệnh tiễn đưa chú lính nhỏ bé.

    Hai tuần lễ trôi qua nhanh chóng, Hạnh đã đưa Hùng đi hết tất cả những quán ăn cần phải thử. Ban ngày lúc Hạnh tới trường tổng hợp nghe giảng thì Hùng lấy xe đi chơi khắp nơi. Anh đã lên chùa thắp nhang cho mẹ. Bình tra được đặt trong tháp tro của nhà chùa, còn nhang khói thì có các sư chăm sóc hàng ngày. Cuối cùng thì Hùng cũng đã hoàn thành được ý nguyện của mẹ: thành đat trong cuộc sống, biết tự chăm sóc cho bản thân.
    Hôm Hùng lên máy bay trở về Hà Lan, nhà Hạnh lại làm cơm chia tay. Cả buổi cô gái nghịch ngợm, nhí nhảnh như Hạnh tự nhiên lại ít nói, chỉ ngồi nuốt qua loa các món mà ngày thường cô rất thích. Hùng cũng vậy, anh thấy trong lòng như đang chứa một nỗi buồn khó tả, chỉ muốn đồng hồ ngừng chạy để mọi vật đừng biến mất đi.
    Hạnh đưa Hùng ra sân bay. Sau lời chào tạm biệt, Hùng thấy mắt Hạnh như thấm nước, còn anh thì thấy mọi vật như nhòa đi. Hùng không còn nghe thấy tiếng người chào nhau, không còn thấy đám đông đang chuyển động hỗn loạn xung quanh. Trong mắt Hùng lúc này chỉ cố giữ lại khuôn mặt Hạnh với đôi mắt long lanh nhìn chăm chú vào hùng đang bước lùi dần và biến mất sau cánh cửa kính vừa khép lại.
    Chọn một chiếc ghế cạnh cửa sổ. Hùng căng mắt ra nhìn vào đám đông người đi tiễn đang đứng trên lan can vẫy tay chào. Tất cả mọi hành khách trong máy bay, cũng như Hùng, đang dồn hết vào những ô cửa kính bé tí để cố tìm ra một gương mặt quen biết trong đám đông người đó.
    Máy bay đã ra khỏi khu vực sân đỗ, Hùng nhắm mắt lại, cố nén không cho tiếng khóc bật ra trên khuôn mặt đang chảy dài những giọt nước mắt. Có một cái gì đó đang quay cuồng trong đầu mà Hùng vẫn chưa nhận ra. Anh không thể hiểu được là mình đang nghĩ gì.
    Đèn hiệu bật sáng. Hùng vẫn ngồi yên bất động, cố tìm ra câu trả lời. Cô tiếp viên đi qua các dãy ghế để kiểm tra xem tất cả hành khách đã thắt dây an toàn chưa, với tay vòng chiếc đai qua người Hùng rồi cài khóa lại.
    Chiếc máy bay Boing từ từ lăn bánh tăng dần tốc độ rồi nhẹ nhà nhấc đầu lên khỏi mặt đất. Người Hùng hơi ngả về phía sau cùng lúc với ý nghĩ đã hình thành trong đầu. Phải. Hùng đã biết mình muốn gì. Anh đã biết đâu là nơi sống của mình. Phải rồi. Chỉ nơi đó mói có người tiễn anh với đôi mắt lưng tròng để rồi sẽ đón anh với nụ cười tràn đầy hạnh phúc. Chỉ có ở đó anh mới có những kỷ niệm thời thơ ấu mà anh vừa tìm thấy.
    [/FONT]
     
  11. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Last edited: Sep 1, 2012
  12. Ngọc Lan

    Ngọc Lan Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Rắc rối khách Quan[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mai Thị Hường[/FONT]​
    [​IMG]
    [​IMG] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nàng là cán sự Anh Văn của lớp. Thực ra nàng không xinh nhưng gã thấy hình như gã mến mến nàng. Bằng chứng là gã hay nhìn trộm nàng - cho dù mỗi lần bắt gặp, nàng đều tặng cho gã một cái bặm môi và trợn mắt rất chi ngây thơ. Gã lại thích cái kiểu "phản ứng" ấy. Theo gã, nó ngồ ngộ và đáng yêu. Nhưng gã lại thấy buồn vì như vậy chứng tỏ nàng chẳng có một tí tình cảm gì với gã. Nếu mỗi lần gã nhìn mà nàng quay đi thì lại là chuyện khác...

    Nàng có thần tượng là Roberto Baggiọ. Hình như chưa bao giờ nàng dấu giếm ai về điều đó. Cụ thể là nàng luôn tìm cách thể hiện điều đó mỗi khi có dịp tập nói tiếng Anh và bất kỳ ai. Nàng đã hùng hồn nói rằng: "If Roberto Baggio loves me, i will marry him". Gã là đứa mù mờ về tiếng Anh nhưng gã lờ mờ hiểu rằng: "Nếu Roberto Baggio yêu tớ, tớ sẽ cưới anh ấy". Nàng ca ngợi cái tên cầu thủ người ý ấy hết lời. Và gã còn nhớ như in rằng nàng đã được tới 9 điểm trong bài thảo luận về "diễn đàn thần tượng". Cứ nhớ lại ánh mắt lấp lánh hạnh phúc của nàng khi nói về hắn là gã lại tức lộn ruột.
    - Các cậu biết không? Hôm qua tớ mơ Baggio chở tớ bằng xe đạp, tớ còn mặc áo dài nữa cơ! Lãng mạng không? ôi! mà tiếc chết đi được, giá cái xe mini của tớ lúc ấy biến thành cái xe cuốc còn hơn không - như thế thì tớ sẽ ngồi ở đòn vông nhá! Tiếc quá!...
    - Ôi! Con cún Baggio nhà tớ đáng yêu lắm cơ!
    - Tớ căm thù Del Pierọ Chỉ vì nó mà Roberto của tớ ít được vào sân. Mà đá thì có ra gì chứ, chỉ đáng xách dép cho Roberto của tớ. Nếu ai thích nó tớ sẽ đổi 5 ảnh của nó để lấy 1 ảnh của Roberto thôi. Tớ nói thật đấy!...
    Gã chẳng muốn nghe thêm gì nữa vì những điều ấy gã đã nghe nhàm tai rồi, mà lần nào nàng chẳng nói thế cơ chứ.
    - Này Phong! Nghĩ gì mà ngần tò te ra vậy?
    Gã quay lại. Thằng bạn nháy mắt và cười nhăn nhở. Gã đã thấy bực bội khó chịu mà thằng kia vẫn chưa buông tha:
    - Lại tương tư em nào hả?
    - Làm gì có chuyện ấy!
    - Đùa thế thôi, đây biết tỏng tòng tong ra rồi. Cứ nói xừ ra là con bê Nhi cho xong, chỗ bạn bè với nhau...
    Gã toan nói lại nhưng nghĩ sao rồi lại thôi. Có lẽ tại thằng bạn đã đoán trúng ý gã. Gã ngơ ngẩn:
    - Thế cậu bảo tớ thế nào?
    - Cậu ngốc lắm!
    - Sao mà ngốc? - Gã bắt đầu nóng mặt.
    - Thì ngốc là ngốc chứ sao! Chẳng đứa nào lại suốt ngày nhìn chằm chằm vào đứa mình thích như cậu. Tóm lại là cứ phải tỏ vẻ lạnh lùng một tí. Nó biết cậu thích nó thì nó sẽ "làm giá" hơn đấy. Con gái vốn thế mà. Nếu cậu tỏ ra thờ ơ với nó thì tình thế sẽ khác ngay ! Đã hiểu ra chưa?
    - Tơ biết sao được!
    - Chán cậu chết đi được. Chỉ cần từ bây giờ, cậu cứ thờ ơ, cứ phớt tỉnh một khi gặp nó. Làm như là cậu không quan tâm gì đến nó ấy. Cần thiết thì cậu có thể nhún vai hờ hững kiểu Rét-Bấtlơ hoặc "cười ruồi" lạnh lùng cho nó biết tay, hết cái thói tinh vi ấy đi.
    - Nhưng mà nhỡ may...
    - Nhỡ nhỡ cái con khỉ mốc ý. Cậu không biết là "mọi cái chỉ còn hấp dẫn khi nó chưa được khám phá à?"
    - Thì tớ vẫn biết là thế rồi!
    Đó là lần đầu tiên gã ủng hộ cái quan điểm đó của thằng bạn "chí thân chí cốt" từ thủa hai thằng còn mặc quần cộc chạy nhông nhông khắp xóm. Gã ủng hộ vì dù sao nó cũng có cái lý của nó. Và thế là từ nay gã yên tâm vì có "hậu phương vững chắc" theo đúng nghĩa đen lẫn nghĩa bóng là vì thằng bạn thân ấy ngồi sau lưng gã.

    Đương nhiên là gã nhận thấy mình có năng khiếu trong việc nhập vai một kẻ chuyên "đội mũ phớt" và "ăn bánh bơ". Dường như thành công đã vượt ra ngoài tầm mong đợi của gã. Bằng chứng là gã nhận ra cô nàng đang cố tạo ra sự chú ý trước gã. Một cái xõa tóc, một bước đi nhảy nhót... "Ồ! có hề gì. Thường thôi bé con ạ !" - Gã vẫn tự nhủ thầm như vậy. Và không rõ từ lúc nào gã đã thành một nhận vật được bọn con gái đem ra "mổ xẻ" trong cuộc trò chuyện.
    - Phong dạo này sao ý các cậu nhỉ?
    - Ừ! Cứ lạnh tanh như... như... à, như cá chết ấy!
    - Hay là gặp "rắc rối khách quan" rồi?
    - Ai biết! Chắc nó thần tượng Rét đấy mà?!
    - Cũng hay ra phết nhi?
    Đến nỗi một hôm cô nàng đưa cho gã một mãnh giấy. Dĩ nhiên là gã nhận nó rất dửng dưng kèm theo một cái nhún vai hờ hững, bất cần. Mặc cho trí tưởng tựng và tò mò thi nhau phát triển, gã vẫn quyết định không mở ra xem. Gã lạnh lùng đưa mảnh giấy cho thằng bạn để làm ra vẻ ta đây cóc thèm quan tâm. Chẳng biết cô nàng viết gì mà thằng bạn gã cứ tủm tỉm cười. Gã nóng ruột lắm.
    Chính vì thế mà mới giờ ra chơi là gã đã kéo thằng bạn ra ngoài. Gã tò mò:
    - Lúc nãy nó viết gì mà cậu cười ghê thế?
    - Cứ xem thì biết. may mà cậu sáng suốt đưa cho tớ chứ không thì cậu "đứt" rồi, boy ạ!
    Gã mở mảnh giấy ra xem và bắt đầu bủn rủn cả người:
    "Phong ạ! Thực ra tớ hiểu lý do cậu lạnh lùng thế. Đừng mặt cảm Phong ạ. Bệnh ghẻ không phải là quá nghiêm trọng đâu. Tớ rất thông cảm về nỗi buồn của cậu. Cứ yên tâm và vô tư mà điều trị. Cậu thử dùng DEP thật kiên trì xem sao!". Ối trời ơi! Gã điếng người. Mà gã có ghẻ gì mà cho cam. Sạch sẽ thơm tho thế này...
    - Con bé này "tanh" thật! - Thằng bạn gã chặc lưỡi bảo.
    - Tớ không ngờ là lại ra nông nỗi ấy.
    - Thế này thì "Khiêu khích nhân loại" quá rồi còn gì. Chả nhẽ tớ và cậu lại phải cam chiệu buông xuôi à? Nhưng nói gì thì nói, dù sao cũng chứng tỏ rằng con bé ấy đã quan tâm đến cậu, đúng không?
    - Tớ chả muốn được quan tâm cái kiểu ấy. Đúng là hú vía. Tin này mà lọt ra thì tớ chỉ còn nước đeo mo vào mặt - Gã bấn thần.
    - Bình tĩnh nào. Hình như tớ và cậu đã sai hướng rồi. Chán thật ! Có điều tớ không nghĩ ra ngay ban đầu. Thần tượng chỉ là thần tượng thôi.
    - Nghĩa là...
    - Nghĩa là tốt hơn là cậu nên thần tượng Roberto của nó đi là vừa.
    - Tớ à? Có mà mơ, có mà điên, có mà... Ờ... Ờ... Tớ cũng chẳng biết nữa.
    - Tùy cậu thôi. Tự dưng dính vào chuyện ấy khổ lắm!
    Thằng bạn gã nói rồi lại lật khật bỏ đi. Gã ngẩn ngơ vì bất ngờ. Tuy vậy, gã vẫn bắt đầu việc ấy bằng cách dán một tấm ảnh Roberto lên cặp. Cô nàng rất ngạc nhiên:
    - Ơ ! Bữa nay Phong cũng...
    - Ừ ! - Gã bối rối.
    Và thế là cô nàng bằt đầu kể cho hắn nghe đủ thứ chuyện về Robertọ Gã chăm chú lắng nghe. Và hình như gã bắt đầu thấy mê mê sao ý. Dù sao cái sự "ghen" ấy cũng thật đáng yêu. Gã đã trở thành một Tifosi bất đắc dĩ từ lúc nào. Với lại thần tượng là thận tượng chứ! Thế mà đã có lúc gã tức lộn ruột, gan, phèo, phổi về chuyện này cơ đấy. Chao ơi! Gã ngẫm lại thấy hay hay, ngộ ngộ và ngốc nghếch thế nào.

    - Ê, Phong! Cậu biết không. Hôm qua tớ mơ tớ với cậu được gặp anh ấy nhé! Cậu không tưởng tượng được đâu...
    Ôi, thế là tự dưng gã có mặt trong giấc mơ của một người. Thế là niềm vui lại xôn xao...
    [/FONT]
     
  13. Ngọc Lan

    Ngọc Lan Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ràng buộc êm Ái[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cấn Vân Khánh[/FONT]​
    [​IMG]
    [​IMG] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Em sẽ ra đi, bất cứ khi nào anh muốn". Má Lương đầm đìa nước mắt, tôi nhìn nàng từ phía sau lưng. Lần thứ chín hay thứ mười nàng nói với tôi câu đó. Tôi không nhớ, chỉ biết là lần đầu tiên sau khi xách va li về sống chung với tôi, nàng đã nói thế. Không. Phải nói là nàng tuyên bố thế. Và bây giờ. Nàng đang lặp lại. Phụ nữ thường vậy. Họ luôn nói ngược lại suy nghĩ của mình.

    Tôi ngửa cổ rít thuốc. Muốn? Tôi chẳng muốn gì cả. Ở thời điểm hiện tại tôi hoàn toàn yên ổn và ít nhất là không có khả năng chịu đựng bất kỳ một sự xáo trộn dẫu là nhỏ nhoi nào trong cuộc sống của mình. Thu nhập ổn định, môi trường làm việc khá dễ chịu, lương bậc tăng dần theo năng lực, bạn bè giao đãi tốt, đối tác không tồi…Thậm chí đã quá lâu tôi không biết buồn là thế nào.
    Vậy thì tại sao, tôi phải gây hấn với Lương, trong một buổi tối ấm áp thế này.
    Tôi cởi áo sơ mi. Lương đi qua tôi, những bước đi chậm rãi. Nàng quay trở lai với chậu nước ấm. Tôi ngồi xuống ghế, cởi giày. Chỉ cần vậy, nàng ngồi thụp xuống, xắn tay áo và tháo bít tất cho tôi, nhúng chân tôi xuống nước. Những ngón tay nàng mơn man lên gan bàn chân tôi thật dễ chịu. Nàng kỳ cọ cho tôi. Tôi ngã người ra vì nỗi dịu dàng thấu suốt lan tỏa khắp cơ thể.
    Thậm chí là tôi và nàng không ngại ngần khi làm tình ngay trên chiếc ghế sô pha này.
    Xong xuôi nàng thường im lặng và đôi khi mỉm cười một mình. Tôi không hiểu hoặc cố tình không chịu hiểu nàng đang nghĩ gì. Tôi sợ mệt mỏi. Tôi thích buông lơi ý nghĩ. Tôi không còn tò mò về thế giới của nàng như trước đây. Có lẽ toàn bộ con người nàng đã thuộc về tôi, nên tôi chẳng hơi sức đâu mà tìm hiểu, mà lưu tâm. Mặc kệ nàng. Tôi đi ngủ.
    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Một cuộc party vui vẻ chưa từng có khiến tôi tuy hơi chếnh choáng nhưng vẫn định thần được vị trí của một manager đầy kinh nghiệm với đại diện đối tác phía bên kia là cô gái trẻ trung xinh đẹp tên Ly. Dường như chúng tôi đã nói chuyện với nhau bằng mắt nhiều hơn. Rất may mắn là với chiều cao một mét bảy mươi lăm, chân dài đến mấy Ly cũng chỉ đứng đến cằm tôi. Thậm chí, tôi buông tuồng đẩy xa ý nghĩ đến mức nếu muốn hôn tôi em phải kiễng chân cơ đấy Ly ạ.
    "Em đi bằng gì đến đây thế?". Tôi hỏi ướm vậy, hy vọng là Ly sẽ nhận ra ngụ ý của tôi là muốn đưa em về. Kết quả tốt hơn dự đoán, Ly trả lời tôi: "Em đi taxi". Tôi và Ly ra ngoài khi bữa tiệc chưa kết thúc. Tôi hào hứng ở mức độ không ngờ khi mà suýt nữa tay tôi huơ lên chạm vào vạt váy của Ly. Và tôi nhận ra, Ly thật đẹp. Như một bức tranh sinh động.
    Tôi đưa Ly về đến tận cửa sau khi đã trao đổi một số thông tin về nhau. Không quên chúc em ngủ ngon. Tôi chạy xe về nhà, đứng ngoài hành lang một lúc, vừa châm thuốc tôi vừa soạn một tin nhắn khá ngọt ngào cho Ly rồi mới bước chân vào thang máy bấm nút số 7. Trên đó, Lương đang đợi tôi.
    Cửa không khép, nàng vốn bất cẩn. Muộn thế này. Nhưng tôi không làu bàu trách cứ. Có lẽ tôi đang hưng phấn về cuộc gặp gỡ với Ly. Tôi đi thẳng vào nhà tắm, chợt nhận ra đây là lần đầu tiên tôi nghĩ đến người con gái khác ngoài Lương, sau một năm sống chung với nàng. Hoàn toàn không day dứt.
    Lương đang cầm trên tay một thỏi son, nàng quệt ngang môi, một cử chỉ hồn nhiên dễ thương không tưởng tượng nổi. Thi thoảng nàng vẫn thế. Dù nàng buồn bã và ủ dột nhiều hơn. Tôi không đợi nàng sấy tóc cho mình mà tự làm. Lương tiến đến tủ quần áo lấy ra một chiếc váy đầm màu tím sẫm. Nàng định đi đâu thì phải. Nàng rất ít khi đi ra ngoài. Tốt nghiệp đại học, Lương không đi làm mà ở nhà viết sách. Nàng đang tập trung viết cho xong cuốn tiểu thuyết cho nhà xuất bản. Nhưng sao nàng không nói với tôi một lời. Phải chăng nàng bắt đầu nghĩ tôi tự do thì nàng cũng cho mình cái quyền đó.
    Tôi bật ti vi, không nhìn nàng. Lương xỏ giày, những lọn tóc xoăn lõa xõa xuống ngực khiến tôi xao động. Tôi tiến đến ghì lấy nàng và bắt đầu hôn.
    Lương đáp lại tôi nồng nhiệt, nàng cắn khẽ tai tôi: "Anh ngủ đi, em ra ngoài một chút". "OK". Không thể lãnh đạm hơn thế. Tôi để nàng đi tự nhiên.
    Lương là người dễ dàng thỏa hiệp. Hoặc nàng hiểu tôi.
    11 giờ đêm. Nàng gặp ai? Không phải đám bạn văn chương bỗ bã nốc rượu hút thuốc như điên thi thoảng lại đến đây kiếm nàng đấy chứ. Tôi biết rõ nàng luôn giữ khoảng cách nhất định với họ. Mẹ nàng ở xa, không thể về Việt Nam một cách đường đột vậy, và cũng không có lý do gì khả dĩ để 11 giờ đêm, nàng đi ra khỏi phòng. Như thế này.
    Tôi xỏ giày, vừa đưa tay kéo cánh cửa thì chuông điện thoại rung lên. Ly gọi. "Anh đã ngủ chưa?". "Anh chưa. Không hiểu sao, anh cảm thấy khó ngủ quá". Đầu óc mụ mẫm cộng với men rượu bốc lên đầu khiến tôi không nghĩ ra được câu nói nào hay ho hơn câu đó. Thì thôi em nghĩ sao cũng được, cho là tôi vì choáng ngợp trước sự sắc sảo, vẻ đẹp kiêu sa của em mà không ngủ được thì cũng đáng thôi.
    Ngay lập tức, ý nghĩ kiếm tìm Lương vụt tắt. Giữ phép lịch sự, tôi tắt điện thoại rồi gọi lại cho Ly. Chúng tôi trò chuyện cùng nhau gần một tiếng đồng hồ. Rồi tôi thấy chỉ còn mình tôi nói và hình như Ly đã ngủ thiếp đi trong tiếng thủ thỉ dịu dàng của tôi.
    Nhưng tôi không buồn vì điều đó.
    Tỉnh giấc, tôi đã thấy Lương ngồi bên máy vi tính. Nàng đang chăm chú gõ chữ, tóc vấn cao để lộ cái gáy trắng nõn. Như không hề có gì xảy ra.
    "Đêm qua em đi đâu thế?". Tôi khó lòng kìm chế trong trạng thái cực kỳ tỉnh táo. "Em đi bar. Đã lâu rồi...". Tôi không quên là chúng tôi đã quen nhau ở một quán bar. Nhưng từ hôm đó, em đã hứa với tôi sẽ không đến đó một mình nữa nếu tôi muốn.
    Tôi vùng vằng ném chiếc gối lên tường. "Hôm nay chủ nhật, sao anh không ngủ nữa cho đỡ mệt?". "Mệt cái con khỉ!". Tôi bắt đầu cáu kỉnh. Lương im lặng tiến tới gấp tấm chăn nhàu nhĩ trở nên vuông vắn với một thái độ nhẫn nại không ngờ. Tự nhiên, trào lên trong tôi một cảm giác xa lạ đầy hoài nghi. Rằng tôi và nàng đã không còn tự nhiên như trước nữa.
    Tôi đã không ghen tuông gìn giữ lấy nàng khi nàng đi khỏi. Mà tôi chỉ bực bội nhưng không giải thích nổi vì sao.
    Tôi còn yêu nàng không?
    Hay có những ngày tôi đi làm đến tối mịt mới về, không đụng đũa đến mâm cơm nàng bày sẵn, tôi lên giường ngủ một mạch chẳng thiết đến cảm giác tay nàng nắm chặt tay tôi.
    Và nếu không nhầm thì tuần vừa rồi, chúng tôi không chạm vào nhau. Ngoài một nụ hôn khá suồng sã từ phía tôi?
    Hay có đêm tôi ở lại nhà thằng bạn thân nhậu hết chai vodka rồi chẳng muốn về. Vì nếu về thì ngại quá phải nghe những lời trách cứ từ phía nàng? Và vì chắc chắn cả đêm nàng sẽ gọi điện hỏi tôi ở đâu nên tôi tắt máy.
    Tôi đã quen được với sự ràng buộc từ phía nàng. Hay là không thể, khi mà thời điểm này tôi lại bắt đầu thèm cảm giác được tự do đến thế?
    Nói ra điều đó, có tàn nhẫn lắm không?
    "Em sẽ ra đi, bất cứ khi nào anh muốn". Lương thì thào trong tiếng gió thoảng. "Anh có bao giờ nghĩ đến cảm giác của em không?".
    Tôi tắm gội, thay đồ, xịt một ít nước hoa lên cổ áo rồi xuống phố. Không quên mang theo laptop. Tôi chạy xe đến "Nắng Sài Gòn" và gọi điện cho Ly. Ly hẹn tôi ba mươi phút nữa sẽ xuất hiện. Trong thời gian chờ đợi, tôi sẽ vào mạng checkmail, lướt qua tin tức.
    Quả thật Ly là người khá đúng hẹn. Tôi và Ly cùng ăn sáng, cười đùa vui vẻ như một cặp tình nhân gắn bó. Tôi đã nắm tay và hôn lên tóc em. Ly đón nhận rất tự nhiên.
    Chúng tôi trò chuyện sôi nổi. Buổi sáng tinh khôi ở bên em khiến tôi thanh thản. Sau đó, tôi đưa em đi ăn cơm trưa và cả hai đều không muốn rời nhau. Tôi đọc được ánh mắt Ly những xúc cảm khó tả.
    "Em có muốn nghỉ ngơi một chút cho đỡ mệt không?". Ly im lặng. Chúng tôi vòng xe vào con đường có rất nhiều khách sạn. Cả hai cùng cảm nhận điều gì sẽ xảy ra. Chúng tôi hòa hợp khá nhanh. Ly tỏ ra nồng nhiệt. Và tôi cũng vậy.
    Nhưng trong giây phút ấy, giây phút mà tôi tưởng mình gần gũi với Ly đến thế, gương mặt Lương phảng phất hiện ra, đôi mắt u buồn của em khiến tôi không thể không xa xót. Giống như một sợi dây thiêng liêng nối liền giữa tôi và em đã đứt thành từng mảnh nhỏ không thể nối lại. "Anh buồn gì vậy?". Ly châm hai điếu, một cho em, một cho tôi. Tôi đưa tay lùa sau gáy em, lắc lắc đầu. Ly đưa tay bứt những cánh hoa trên bàn nước: Anh không được thoải mái lắm. Phải không? Điều gì đang xảy ra trong cuộc sống của anh? Đừng giấu em". "Không, thật mà". "Mình về đi anh".
    Tôi không thuyết phục, cũng không giữ nổi Ly. Vì nếu ở lại thêm, có lẽ tôi sẽ không thể giấu Ly về Lương. Có lẽ tôi sẽ kể cho em nghe, dù tôi phải nhận những cái tát từ phía em.
    Ly là người nhạy cảm.
    "Anh không phải đưa em về. Em sẽ gọi taxi". "Em sao vậy?". Tôi bắt đầu mệt mỏi. "Em phải đi công chuyện. Anh đừng lo cho em". "Không, anh sẽ đưa em về?". Tôi cố gắng tỏ ra cương quyết. Ly rút điện thoại ra gọi. Tôi chợt nhận ra, cô gái trước mặt tôi đây không phải là Lương mẫn cảm yếu đuối, mà là một Ly mạnh mẽ và độc lập quyết làm những gì em muốn. Liệu tôi có thể tìm được một sự bình yên an toàn tương đối với em không?
    Cũng khoảnh khắc đó, khoảnh khắc nhìn Ly bước lên taxi vẫy chào tôi qua ô cửa kính, tôi đã không tin mình sẽ còn gặp lại em.
    Tôi trở về nhà, tâm trạng trống rỗng. Đứng mãi trước căn hộ của mình, giơ tay ba lần mà tôi không thể gõ. Đúng lúc đó Lương bước ra, trên tay xách va li nặng trĩu, nhìn thấy tôi chân nàng hơi khụyu xuống. Tôi sừng sững chắn ngang trước mặt. Và lần đầu tiên, tôi nhìn thấy những giọt nước mắt của mình rơi xuống tay nàng. Nhưng nàng đã rụt lại. Và lách qua tôi. Đi thẳng. Tôi những muốn chạy theo kéo nàng lại, thậm chí có thể quỳ gối xuống mà níu kéo van xin chẳng ngại ngần. Tôi tin nàng sẽ ở lại bên tôi. Nhưng tôi bất lực. Tôi buồn bã. Tôi cuồng dại. Tôi chỉ biết trân trân nhìn theo nỗi ràng buộc êm ái đang đi khỏi thế giới tự do của tôi, khuất dần và mất hút sau cánh cửa thang máy vô tình kia đang từ từ khép lại.
    [/FONT]
     
  14. Ajinomot

    Ajinomot Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ranh giới[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Như Bình[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dĩ nhiên có nhiều lối rẽ và vô số lý do xác đáng để có thể đi về phía ấy. Người ta bảo đấy là bãi biển tình yêu, chốn trú ngụ tuyệt vời cho những trái tim nổi loạn. Biển nhiều sóng đến thế. Biển thì không cụ thể mà sóng cứ cồn cào mong lấy bớt đi rêu phong muôn đời của vách núi. Có thể hàng triệu, triệu đôi lứa đã đến đây và găm kỷ niệm lại trên những tảng đá cuội cười chen nhau nằm lô xô trên bãi, trong những hang hốc bí ẩn mọc đầy loài muống hoang.

    Sự gặp gỡ và bén nhau thật nhanh, hình như đã nằm ngoài khả năng dự cảm. Cứ như thể sinh ra đã là nó. Nhưng em và tôi lại là chuyện khác. Tình yêu lại là chuyện không thể nói giống nhau, như tôi, em và những góc trời thiêng liêng, không thể tỏ bày. Thế mà em cứ đến, cứ lẽo đẽo theo tôi tin và khẳng định mọi điều đều có thể.

    Chuyện gì sẽ xẩy ra? Chiều phóng túng buông mình trên cỏ. Phía cuối chân trời rập rềnh những ráng đỏ. Em và tôi trong hoàng hôn. “Cô ấy bỏ đi rồi, em quyết định ở lại”. Tôi ngẩn ngơ. “Em đi làm gì vậy”. Em giấu mặt vào hai bàn tay: “Chẳng biết nữa”, “vậy sao rồi?” “Cô ấy nói không trở lại.” “Chạy theo đi, giữ cô ấy rồi nói lời xin lỗi khi chưa thật muộn.” “Ðể làm gì?” “Em yêu cơ mà.” Mắt em mờ khói. “Ðã yêu”. Tôi bắt đầu yếu mềm, ấy là khi trào lên chút thương cảm: “Phải làm gì đi chứ?” “Vô ích.” “Không thể như thế.” Em thảng thốt: “Chúng em yêu nhau gần ba năm rồi.” Tôi gật đầu “Cô ấy xinh và ngoan.” “Thế mà chẳng bao giờ gần nổi nhau, giữa hai đứa khoảng cách cứ lùi xa không còn cách cứu chữa. Có bao giờ chị tự hỏi thói quen làm người ta lầm tưởng tình yêu?” Tôi ngẩn ngơ thương cái dáng nhỏ liêu xiêu của em trên đá: “Chạy theo đi, giữ tình yêu của mình. Ðừng đánh mất.” Em xa xăm: “Ðể làm gì?” “Ðớn đau lắm.” Em ngạc nhiên nhìn tôi rồi đáp cộc lốc: “Còn em. Sự trống rỗng khi ở bên nhau thật đáng sợ. Em không cần, chúng em đều biết tự nó phải thế. Phá vỡ rồi làm lại còn hơn sai lầm cả đời.” Tôi van vỉ: “Thế còn cô bé?” Em bình thản: “Sẽ hiểu.” Tôi thấy mình xót xa: “Em quá quắt lắm”.Mắt em nhìn lên rực nắng. Em bảo: “Bây giờ thanh thản”, Còn gió thì thốc vào ngực tôi buốt nhói …

    Thế mà cái đuôi của tôi cứ mọc dài ra, là em cố tình làm tôi khó chịu. Ðêm cứ ngắn lại thăm thẳm. Em không chịu rời tôi. Làm sao có thể cắt nghĩa cho em hiểu tôi đã có gia đình, có người chồng hết mực chăm lo, có em bé đẹp như ao ước. Em lẳng nhẳng theo tôi như thưở tôi mười lăm, em mười sáu. Sắp bực mình thì cái mặt non choẹt ngây ngô của em lại nghệt ra. Rồi thôi. Tôi chẳng đủ sức đễ gieo mình trên con đường lối ra phía biển. Em như túi xách lỉnh kỉnh tôi muốn ném ở nhà để thơi thả thì lại phải mang theo. Và quan trọng là thời tiết biển những ngày này thật kinh. Biển như vũng nước ngòm đen lầy lụa. Quà biển đổ bờ nhiều quá thế, mặt ngư dân sáng trưng còn không gian đông quánh mùi vị tanh tưởi. Không nắng, không gió, bức bối và ngột ngạt.

    Một đêm trở gió. Em đến và quây quả: “Ði biển”. Tôi hỏi: “Ðể làm gì?” Em nhỏn nhoẻn cười: “Chị thừa biết. Chơi thôi! Biển đẹp lắm. Em chờ mãi mới có một hôm biển đẹp và yên tĩnh thế này.” Em không thèm quan tâm tới tôi có đồng ý không. Cứ như thế tất cả mọi điều đều có lý. Người ta có quyền đi mà không ngại suy nghĩ bởi ngoài kia có gì đấy rất đẹp. Cái đẹp luôn tự cho phép mình bào chữa mọi điều, và tất nhiên sự đi chơi của em và tôi là hồn nhiên. Gió thổi, ngực em phô phag đón gió rồi em nheo mắt cười thoảng nét kiêu hãnh. Tôi ngột ngạt: “Ngại quá !” “Không ngại.” “Ấy là mệt” . “Chẳng mệt”. “Em đi đi”. “Cả chị nữa.” “Có nghĩa gì?”. “Có”. “Chị không thích”. “Chị có thích”. “Chị nói dối thế làm gì?” “Thôi mà em, đừng làm chị mệt. Chị có trẻ con nữa đâu với em thế. Chị bị đau tim đây này, đừng đi nữa”, “Chị van nài như thế để làm gì, chị đang đi đấy thôi. Rồi chị sẽ hết đau, hết mệt”. “Không”. “Có”. Em và tôi giằng co, gió trở mình làm run lên đám lá hờ trên cỏ. Tôi đưa chân mình thả bước dù cố không nghĩ tới, mà lối rẽ vẫn hiện ra. Gió thổi tung và ném lên cao những chiếc lá khô rồi lại ào ạt thả xuống vô số chiếc lá úa. Tóc trôi bung lên xao xác. “Lạnh thật.” “Không lạnh, đấy là chị rùng mình.” “Ði đâu thế này?”. “Như chị vẫn thường thích …”. Tôi lặp lại như cái máy: “Thường thích”. “Ừ, em ngắm chị chán vạn trên con đưòng này rồi. Chị có biết em nghĩ gì về sự đi được nửa chừng rồi quay về của chị không?” Tôi biện bạch: “Chị sợ”. Em lắc đầu. “Không”. “Thì gì nào?” “Chị không dám đấy thôi, người ta có thể đi một mình trên con đường, còn chị thì không. Tại sao không có ai đó đưa chị đi, không một ai ở bên chị?” Tôi cười: “À mọi người bận hết.” “Thế chị ốm à?”. “Ừ, chị hơi bị nhức tim”. “Tim chị không đau, em biết. Chị tự huyễn tưởng thế thôi. Ðể em chữa cho chị” “Bằng cách nào?”. “Bí mật. Nhưng chị phải tôn trọng em cơ”. “Như gì nào”. “Như một người đàn ông thực thụ, môt người đàn ông cao cả”. Tôi rục mặt vào cánh tay cười: “Ừ, thì cao cả. Nhưng cái trò này vớ vẩn không kém”. “Em ghét chị coi.” “Thì tốt”. “Sao?”. “Chẳng sao”. Chúng tôi nhón chân bước. Ðêm trải dài vô tận và con đường này hình như không còn chỗ dừng chân? Những chiếc lá trở mình khẽ khàng dù muốn dù không. Em loay xoay vuốt tóc tôi. Tim tôi thắt lại,“Ðừng!” “Tóc chị đẹp quá”. “Không phải dành cho em đâu cậu bé ạ”. “Mặc kệ chị”. “Thằng ôn, mày làm sao rồi, đừng nghịch. Mày như con nít đáng mặt út tao.” “Không phải, em là người đàn ông cao cả. Em đang ở bên chị đây này, chị thì gì nào? Giống cô bé lọ lem, chị mong manh như thế kia, em cần phải giữ gìn”. “Thôi đi mày không sao cả. Cãi chị ngang ngang. Bực cả mình tao về đây.” “Ðừng! Chị ngồi lại đi, em không thèm đụng vào tóc chị nữa: Tóc chị không mềm và thơm em biết rồi.” “Thế là tốt đấy. Ngoan đi nhé, kể chuyện vui vui của em xem nào”. “Chị thì hiểu gì mà kể. Mỗi cái đuôi tóc cũng giữ. Chị chẳng đáng yêu, chị giống như vạn người đàn bà nhạt nhòa khác. Như người yêu của em, những người không có trái tim hoặc giả tim họ bị hư, và suốt đời họ không biết yêu đương, thực hiện bổn phận làm người như một cái máy. Chị thuộc loại người đó.” Tim tôi thắt lại, nhịp đập yếu đi lữ lã. Người ta khuyên tôi đến đây để dưỡng bệnh. Anh bỏ ra một số tiền bằng cả năm dành dụm cho tôi mang đi. Tại sao anh không nhắc tôi. “Em đừng lang thang đi với ai đó, đừng xúc động”. Anh vốn thừa biết tôi đa mang. Cứ như thế tôi là thiên thần, và với món tiền này đến đây tôi sẽ mạnh khỏe. Anh có lường hết chuyện gì sẽ xẩy ra với tôi không ? Anh tốt với tôi quá, đơn giản quá mà con tim yếu đuối này lại chở nặng những vớ vẩn không đâu. Anh có bao giờ làm tôi phiền lòng chút nhỏ. Anh yêu tôi và tin tôi đầy ắp hạnh phúc, dù rằng tôi chẳng dám chắc hạnh phúc là cái gì đấy có thật và hiện hữu bên mình. Chẳng lẽ với anh, không một lý do gì để tôi làm anh buồn hay cảm thấy bị thương tổn, phải không trái tim bé nhỏ. Có ranh giới giữa tôi, anh và một ai nào khác không? Trái tim thì luôn thức đập mà những khoảng khắc sâu thẳm hẳn không dễ gì tới được. Em lại xoay sờ vào tóc tôi. Những ngón tay em gầy trong tóc tôi lơi lả. Thôi thì để yên. Không có gì là không có lý do. Tôi sợ tim mình lại không bình thường. Cơn đau có thể đến bất thần và quất ngã tôi xuống. “Tóc chị mềm và thơm lắm, sao chị trẻ con như vậy?” Em dụ dỗ tôi? Hay em thấy tôi mong manh quá? Tôi cười nhẹ: “Thật trẻ con.” “Thì người lớn”. “Không người lớn”. “Thì sao nào?”. “Chẳng sao cả.” Em và tôi cười phá lên. Phía xa kia là biển. Có nhiều lối rẽ. Ðường cứ thế bày sẵn ra mời gọi người đi. Em và tôi vòng vo mãi nhằm con đường ngập ngụa lá. Mùa thu như đang trú ngụ khắp mọi chỗ. Mưa sắp giăng nhạt nhòa ở phía xa. Tôi – Em – và những con đường cái cây đến mùa trở gió.

    “Em có nghe không? Trong vô số đó người ta chỉ có thể chọn cho mình” …Em lại đụng vào vai tôi khẽ thôi nhưng sao tôi lại thấy da thịt mình tê dại. Hình như ở phía em ấm nóng hơn tôi tưởng. “Ðây…một con đường duy nhất mà thôi, người ta không thể có một lúc hai cái bến trú. Sự được là sự mất, sự hợp là sự chia…”. Tay em thít vào vai tôi mềm và khỏe. Tôi bơi trong trạng thái không trọng lượng, nếu em đặt tay lên ngực tôi sẽ thấy trái tim tôi đang đập dại điên, nếu em biết…Tôi khéo léo tuột ra khỏi tầm tay em giả bộ cười tinh quái. “Em sao thế, không muốn nghe chuyện nữa à!”. Em nó trong mơ màng: “Thôi! Chị, lý sự quanh co để làm gì nào, chị đang ở bên đấy thôi, thế là đủ. Chị cứ vui đi nếu chị đang vui, đừng xưng tội để rồi phạm tội, chán lắm.” Tôi co ro dò dẫm trên những vệt cát thẫm ai đó vừa đi qua rồi ngẫm ngợi. “Em nói gì thế”. “Nói trái tim chị đấy”. “Chị sợ biển lắm”. “Biển về đêm thần bí như câu chuyện cổ tích: Chị là câu chuyện cổ tích em muốn đọc”. “Thằng điên”. “Phải vậy thôi, trẻ em thường mê chuyện cổ tích”. Vẫn biết điều đó sẽ đến sẽ xảy ra nhưng sao lại xảy ra nhanh thế này. Em sắp ôm lấy tôi rồi và tôi sắp buông mình vào vầng ngực thanh thản kia chăng? Khoảng cách giữa em và tôi ngắn lắm, chấp chới lắm đủ để tôi nghiêng ngả. Tôi đứng yên bàng hoàng chờ đợi phút khủng khiếp ấy rồi sau đó sẽ tan ra bay vào trời xanh. Có thể gần lắm… môi em sẽ lướt trên môi tôi đờ đẫn. “Em chẳng biết gì đâu. Chị giống như hạt sương ban mai bỏ quên trên cỏ. Cho em được nâng niu một chút, chị nhé …”. Ngực tôi mệt lử. Tôi sợ nhìn vào mặt em, sáng trong đến không nỡ - tôi sợ nhìn vào môi em, nồng nàn quá đỗi mà tôi lại mệt lã yếu mềm. “Chị ơi”. Mắt em gọi. Cúc áo ngực tôi sắp bị tung. Em ngước nhìn ngây ngô. Mặt em dài dại. “Em hôn chị nhé, một thôi, ở môi, ở mắt… thôi thì ở tóc”. Tôi cúi mặt lặng im. Thôi thì đừng tự dày vò mình. Một nụ hôn. Có thể con người ta luôn không có cái mình cần, có ai đó may mắn hơn được nhìn thấy một lần rồi tuột mất. Có phải thế mà suốt đời ta dằn vặt, đa mang, đau khổ, và loay hoay kiếm tìm…

    Môi em miết trên bờ vai tôi run và khát. Tôi sợ mình sẽ đổi xuống cát, sẽ vỡ òa như một trái chín nẫu. Tôi xù long: “Em xấu quá. Tôi hơn tuổi em, em phải biết lịch sự chứ!” . Em ngước nhìn: “Em yêu chị”. “Mày điên rồi”. “Chị cũng điên rồi.” Tôi cuống quýt. “Chị không yêu mày, đồ con nít”. “Chị có yêu”. “Ðừng nói lung tung nào”. “Chị hèn thế”. “Thôi chị về đây”. “Vô nghĩa. Ra đến nơi rồi, sao chị không ngồi ở nhà từ đầu, đã đi rồi thì quay lại làm gì”. Tôi đáp hụt hơi: “Chị mệt”. “Ðừng trốn chạy chính mình. Thôi đừng nói gì nữa, yên đi để em yêu chị nhé”.

    Tôi thấy quần áo mình rách bươm bay tả tơi trong gió. Em gần tôi quá thể mà sao tôi vươn mãi vẫn không chạm tới. Ngực em phô phang tóc em bay ngược chiều gió để lộ vầng trán cao và rộng. Tôi nhũn nhẽo trên cát, chân tay bần bật, và cát, gió bay quật vào mặt tôi mờ mịt. Tôi chống chọi, vật vã, cuống quýt. Em vẫn chập chờn ở xa tôi …

    Rồi em đòi tôi dừng lại và ngồi xuống mấy mõm đá lô nhô trên bãi. Em không muốn đi nữa. Em rũ xuống như cái cây vừa chống chọi qua cơn bão. Tôi nao lòng. Biển đêm lập lòe ánh sáng xanh xao ma quái ở xa tít. Gió cứ thổi như thế quần đảo suốt đêm hòng làm bớt đi sự hoang vu yên lặng vốn có của khoảnh khắc giao ngày.

    Mắt em hao gầy đi và đêm cứ xanh xao lên mãi. Thời gian vùn vụt trôi. Trái tim tôi đập buốt nhói. Là thằng đàn ông trẻ, bởi thế em dễ mệt mỏi và đổ vỡ. Cầu xin em đừng đụng vào tôi, bởi thêm chút nữa, tất cả sẽ vỡ tung. Nhưng tôi biết mình hoài công.

    Những cái đèn như mắt biển dập dềnh ở nơi xa khơi. Biển rộn rực lên như thể nó vốn có những khoảng khắc yên tĩnh. Loang loáng những đôi vai trần nở nang vạm vỡ đang dang tay kéo lưới. Những đôi chân chắc đậm chạy đi vớt cá bỏ lại trên cát những vệt long lanh nước. Tôi thở sâu vào ngực. “Cầu mong cho cái lưới đầy cá”. Em thở dài. “Ước gì có thể phóng thích hết rồi thả chúng về với đại dương”. Tiếng gọi nhau í ới vang lên. Phụ nữ, đàn ông, con trai, con gái và đám trẻ nít liu chiu dậy sớm đổ ùa ra biển cắp những rổ con con rập rình ở hai bên mẻ lưới đang kéo. Một gia đình ngư dân đang chờ thành quả đầu tiên của một ngày đang tới. Tiếng nói, cười lao xao, nghe như tiếng cá quẫy …" Chị ngồi đây nhé, em ra kia xem có nhiều cá không?”

    Ðêm loãng dần… Có mỗt con cá nhỏ lạc vào bước chân tôi. Thân nó mỏng như một chiếc lá lấp loáng bạc. Tôi cúi xuống. Con cá thiếp ngủ, cứ như thể nó là sứ giả của đại dương mang đến sự bình yên của người. Tôi thầm thì, nước mắt lăn trên môi mặn đau. “Hãy đi đi, về với đại dương của mi”.

    Mặt trời rạng lên ở phía đằng đông. Cái doi cát này không dài ra vô định như tôi nghĩ. Con đường này ngắn lắm - và tôi – em - một đêm trên như không thể gặp lại trong đời. Em có trở lại? Hay chẳng bao giờ? Em sẽ cuống cuồng tìm tôi hay em bình thản nhìn tôi xa hút?
    [/FONT]
     
    KDC and LeTruongps like this.
  15. Ajinomot

    Ajinomot Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Rau và Hoa[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phan Triều Hải[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Làng như một dải khăn mỹ miều quấn quanh đôi vai thành phố. Mỹ miều bởi từ đầu làng đến cuối làng, từ những vườn rào ngăn cách nhà đến những ngôi mộ bạc thếch lác đác ở nghĩa trang, ở đâu cũng thắm thiết sắc mầu của hoa và hoa. Hoa sắp đặt mọi hoạt động của làng, từ sớm đến tối, từ năm này sang năm khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ nhiều đời nay. Mỗi sớm tinh mơ khi trời hãy còn nhá nhem, ba mươi phần trăm dân số của làng chuẩn bị gánh hoa về thành phố. Dọc theo con đường làng ngoằn ngoèo, những hình nhân phủ đầy bóng đêm liêu xiêu sáng dần, sáng dần, và sáng rõ mặt người khi chân trần chạm những bước đầu tiên lên mặt đường nhựa mát lạnh của thành phố. Đó cũng là lúc sáu mươi phần trăm dân lao động còn lại của làng tỉnh giấc dưới những mái nhà ấm áp tuềnh toàng. Một nửa chuẩn bị đón du khách xuôi ngược về thăm, trong khi nửa kia ra vườn tưới tiêu cho những đợt hoa tới. Mười phần trăm khác chính là đám con nít đang tuổi ăn tuổi ngủ nằm dài từ phản trong nhà đến sạp ngoài hè, im lìm như dế sau một đêm hát ca mệt nhọc, vừa ngủ vừa hít thở hương hoa để lớn lên mà không sợ ai đánh thức cả. Thỉnh thoảng, một tí đời sống công nghiệp chen vào làng với sự xuất hiện của đám thợ ảnh nghiệp dư trên phố. Bọn họ lựa những mùa nắng đẹp đem máy về, lăn lóc trong rơm rạ, loay hoay tìm cảnh tìm người để khi quay về phố, vun đắp lại cái lạc quan tìm kiếm một sự công nhận nào đó cho sự nghiệp của mình. Nhưng người làng thì không hề quan tâm đến việc đám thợ ảnh làm, lẫn những thất bại bất tận của họ, bởi quan trọng nhất đối với tất cả vẫn là việc được tận hưởng một cuộc sống bình yên.

    Nhưng rồi đến một ngày lạ. Đầu tiên, những người ra vườn bắt gặp già làng ngồi trên thềm cũ, vừa đấm lưng vừa than nhức mỏi. Đó quả là chuyện hiếm gần cả trăm năm nay, nhưng mặc cho cơn nhức mỏi ấy càng lúc càng tăng khiến bà cụ không ngớt rên rỉ, thì bất thường đó vẫn cứ trôi qua trong sự thờ ơ đã thành tâm tính của những người quen sống trong bình yên. Không ai để ý đến chuyện đó cho đến tận chiều muộn, khi từ hướng thành phố, toàn bộ ba mươi phần trăm dân số bán hoa của làng chân trần tất tả quay về không quang gánh. "Làng không được trồng hoa nữa!" - Một người từ xa gào lên. Bụi đường làng cuộn theo những bước chân hối hả, khiến ánh mặt trời đang yếu dần hóa đỏ quạch như sốt. Trong khi đám con nít vẫn tiếp tục chơi những trò vô tư ngốc nghếch, thì sáu mươi phần trăm dân lao động trong làng dừng tay nghe ngóng. "Chỉ được trồng rau!". Những người từ phố về lặp lại. Lúc này, tất cả đã lấy lại bình tĩnh. "Các vị đùa không khéo rồi". Những người trong làng dừng tay, nhấp nước cười xòa. "Các vị tưởng đơn giản hoa chỉ để chơi thôi sao. Đó là thứ nuôi cả làng này đấy". Đám con nít thì vô tư hả hê. "A ha, trồng rau! Lạ quá, trồng rau!". Nhưng không cần mất nhiều thời gian để mọi người hiểu được chuyện gì đang xảy ra, và tất cả sau cười cợt là bàng hoàng, sau bàng hoàng là lặng yên. Tâm trạng của mọi người rối bời, nhưng duy chỉ có một thứ không đổi, không rối, đó là sự thật. Người thành phố đã quyết định thay cái khăn voan mỹ miều đang choàng trên cổ mình bằng một chiếc khăn mới, một chiếc khăn nhuộm xanh ngăn ngắt, xanh của rau chứ không mầu mè của hoa. Một quyết định đột ngột và đơn giản như ý thích của một thiếu nữ trái tính trái nết, trong một chiều ngồi bên cửa sổ, nhìn ra thấy mây bay ngoài trời và chợt muốn thay đổi một thứ trang sức của mình.

    Trò õng ẹo này đã khiến dân làng phải họp hành nhiều đêm liền. Họ tìm cách thảo một bức thư thật thống thiết để mong thành phố thay đổi cái quyết định ấy. Tùy vào số phận công việc mà mỗi người đề xuất ý kiến của mình. Trong khi đám trẻ con chưa đủ quyền phát biểu, ngồi im lìm trong góc vì nhận thức được rõ ràng rằng chúng sẽ lớn chậm đi bởi mùi hương hoa đã được thay bằng một thứ mùi khác hẳn, thì ba mươi phần trăm dân số chủ lực của làng lại hết sức quyết liệt, "Chúng tôi cần hẳn năm trang để trình bày thiệt hại do không bán hoa". Ba mươi phần trăm khác tỏ ra không hề kém cạnh khi tuyên bố họ cũng cần từng ấy trang để bày tỏ sự lo âu về việc du khách sẽ bỏ làng mà đi. Và những người hằng ngày làm công việc tưới tiêu thì cho rằng, số lượng từ ngữ ấy có lẽ không đủ để họ than vãn về một sự suy sụp tinh thần trong tương lai khi phải đối mặt với mầu xanh ngăn ngắt nhàm chán của rau hằng ngày. Cứ như thế, sau nhiều đêm thảo luận, cái đơn thống thiết được hoàn tất, nhưng dài đến nỗi nhiều người phải lo ngại rằng, chính những người có thiện cảm nhất và kiên nhẫn nhất cũng khó có thể dành tâm trí và thời gian đọc hết. Nhưng khi sự cương quyết đã được định hình trên giấy trắng mực đen với chữ ký, lăn tay của đầy đủ dân làng thì như mọi lần, việc cuối cùng họ cần làm là truyền thống hóa nó bằng cách đệ trình lên người cao tuổi nhất. Bà cụ già đến đỗi từ lâu đã không còn xác định được tuổi tác nữa, nay cố gắng kìm nén chứng đau lưng đang hoành hành, lắng nghe đám con cháu trình bày sự vụ. Nhưng chỉ mới được nửa trang đầu tiên thì bà cụ gạt phắt mà bảo: "Các con chỉ cần ghi một câu đơn giản thế này là người vô tâm nhất cũng phải động lòng: Thưa ngài, trồng hoa đối với chúng tôi, là văn hóa".

    Hết sức tỉ mỉ, dân làng gấp cái thư dài hàng chục trang cùng câu kết cực kỳ lịch thiệp ấy vào chiếc phong bì có tẩm hương sản phẩm của làng mà gửi đi. Những ngày chờ đợi cứ lặng lẽ trôi qua với sự nhạt phai niềm tin của dân làng vào những lý lẽ của mình, bởi tính thực dụng thô thiển của nó, và họ dần chuyển sang trông mong vào sức nặng chân lý của nhận xét duy nhất mà bà cụ đưa ra, cái nhận xét giản đơn mà họ thấy ngày càng tỏ ra hợp lý và nhân bản. Nhờ đó, mọi người mới nhận ra người đàn bà héo quắt này từ lâu đã chính là phần hồn của làng, và họ bắt đầu thay phiên nhau chăm sóc chứng nhức mỏi mà bà cụ vẫn than vãn gần đây. Họ cảm thấy rằng, sự tồn vong của làng bằng cách này hay cách khác hình như được thể hiện ở sự vui đùa của gió lên cỏ cây, hay ở sức khỏe của bà cụ. Và hình như đã từ lâu, cái chết tránh xa làng này bởi có bà cụ, hiện thân của sự bất tử đang ngồi đó. Bởi ngay từ ngày đầu sinh ra bà đã được sống giữa hoa, trải qua thời xinh đẹp với hoa, và qua năm tháng, hoa đã thấm đẫm vào để biến bà trở thành văn hóa của làng. Mà văn hóa thì không bao giờ chết cả. Cứ như thế, đám người mê muội bám vào niềm tin ấy mà sống vô tư với những công việc cũ, không hề bận tâm đến ngày cuối cùng của làng hoa đang đến gần, không hề biết những ngày bình yên ấy đang trôi nhanh, và những cuộc đời của họ đã được đưa vào một cuộc thử nghiệm vĩ đại một cách vô tư và đơn giản đến nỗi không phải ai cũng nhận thấy được, ngay chính người già nhất, hiểu đời nhất cũng không thể nào ngờ. Bởi người già thì luôn tin vào kinh nghiệm sống của mình, trong khi ngày nay mọi việc được giải quyết bởi sự hợp tác chặt chẽ giữa những con người sắp hóa thành máy với những chiếc máy vi tính có công suất mạnh đến độ chỉ sau một nhấn nút có thể cho ngay kết quả một phép tính cực kỳ phức tạp mà con người bình thường phải mất hàng ngàn năm mới làm xong.

    Cái thư trả lời có đính kèm bản in những tính toán bằng máy vi tính được gấp làm tư bỏ trong một phong bì lạnh tanh không có hương hoa gì cả. Không cần đến những chiếc máy cực mạnh, lá thư cũng dư sức chỉ ra cho thấy những ích lợi về kinh tế và dinh dưỡng mà rau có thể mang lại, ví dụ như chất sắt. "Trẻ em chúng ta đang thiếu chất sắt". Một câu trong thư nói, giải thích vì sao cần phải bỏ hoa mà trồng rau. Trẻ con nghe và hài lòng. Tiếp theo, "Rau cần nhiều nhân công hơn là hoa", một câu khác giải thích, "điều này được tính toán để tạo công ăn việc làm chính đáng cho mọi người". Những người tưới tiêu và chuyên tiếp đón du khách cảm thấy hài lòng. Lá thư cũng chứng minh cho thấy thu nhập từ rau không kém gì từ hoa khiến những người sớm sớm gánh hoa ra chợ cũng vui vẻ nốt, bởi "người ta ăn được rau nhưng không ăn được hoa", lá thư kết luận, "đó chính là tính bền vững lâu dài của nghề trồng rau". Cả làng như trút được gánh nặng. Mọi người lại hể hả cười nói. ở đâu mọi người cũng hăm hở nói về rau, về những dự tính phát triển dựa trên sản phẩm mới đầy triển vọng này. Nhưng trong một góc tối tăm, bà cụ linh cảm được những gì đang đến, mắt long lanh nước, bà hỏi: "Thế người ta trả lời như thế nào về văn hóa?". Lá thư được đem ra đọc lại. Đây, có lẽ câu này đây, những cái máy bảo rằng, văn hóa hay truyền thống là do thời gian lâu dài mà hình thành nên. Rằng đã có văn hóa hoa, thì rồi cũng sẽ có văn hóa rau. Rằng đã có tên làng Hoa thì rồi cũng sẽ có tên làng Rau. Thế hệ này chưa hình thành nên một kiểu cách văn hóa mới, thì sẽ có một thế hệ khác nối tiếp. Nhưng dường như để an ủi những người bảo vệ văn hóa cũ một cách mù quáng chớ có ầm ĩ, lá thư nói tiếp với một tinh thần trách nhiệm cao: "Chúng tôi sẽ điều chỉnh nếu thấy cần thiết. Bởi đây mới chỉ là bước thử nghiệm".

    Đó là một cuộc thử nghiệm vĩ đại, bởi nó huy động tất cả những gì mọi người đang có. Mọi người vô tình hay hữu ý đều đóng góp phần mình vào đó. Hữu ý, ấy là tất cả những hàng rào hoa ngăn cách giữa những nhà được tháo xuống để trồng dây leo. Đất được cày xới lại đánh bật gốc cũ để vun thành những luống trồng dây lang, dây muống. Mỗi sớm mai, đầu làng cuối xóm vang lên những lời gọi nhau ra chợ. Ba mươi phần trăm dân số của làng gánh những bó rau tươi lỏ rỏ nước theo từng bước chân thoăn thoắt trên đường làng lên phố. Thành phần cư dân còn lại, sáu mươi phần trăm, đều dành cho việc tưới tiêu, không chỉ do từ lâu du khách đã vắng bóng nhiều, mà còn do họ đã tìm thấy được niềm vui thú khi làm chung bên nhau. Đám trẻ con xưa nay đã lớn nên không còn ngủ dậy muộn mà chuẩn bị gia nhập lực lượng lao động của làng, trong khi đám trẻ con mới từ khi ra đời được chập chững giữa rau và rau, đã tỏ ra thích nghi thật dễ dàng, bởi chúng chưa hề biết hoa là gì. Nhưng đóng góp vô tình mới to lớn nhất, đó chính là thời gian của mỗi người. Mỗi người đóng góp một mẩu cuộc đời mình. Cuộc thử nghiệm càng dài, cái mẩu ấy hóa thành miếng to. Nhưng không ai nhận thấy mỗi giây, mỗi phút, mỗi ngày trôi qua trong cuộc thử nghiệm ấy chính là thời gian cắt ra từ cuộc đời vốn đã ngắn hạn của mình cả. Vì kiểu đóng góp này không được đề cập đến một dòng nào trong lá thư ấy, và cũng bởi vì thời gian là một thứ gì đó quá mơ hồ và nhạt nhẽo mà nếu đưa vào máy thì chỉ làm hỏng thêm những công thức đã được định sẵn. Cuộc sống cứ như thế mà trôi đi. Làng không còn hương hoa nữa nhưng ai cũng tin rằng trong cơ thể mỗi người đều có thêm chất thép của rau, và một loạt chất nào đó, cho dù họ chưa bao giờ và sẽ không bao giờ thấy được nó, hiện hình ra sao trong cơ thể mình. Những tay thợ ảnh lại tiếp tục về làng với đề tài mới và lần này họ đã thành công bất ngờ. Đời sống văn hóa của làng bị khuấy động với những giải thưởng được trao cho loạt ảnh đầu tiên chuyên đề về rau.

    Khi mà dân thành phố hầu như đã an phận chấp nhận rau xuất hiện rộng rãi trong đời sống của mình (với những đám cưới có cổng chào và xe kết bằng rau xanh ngăn ngắt) thì những cái máy tính đời sau nhờ có công suất mạnh hơn nên làm một chuyện động trời đảo lộn tất cả. Sau khi tính toán những phép tính mà người trần mắt thịt có tỉ mỉ hàng triệu năm cũng chưa làm xong, thì một cái thư khác được gửi đi. "Nay thì bỏ rau trồng hoa". Kèm theo đó, cũng như trước đây, là một bản phân tích tỉ mỉ lợi ích kinh tế của cuộc chuyển đổi này, rằng tuy trẻ em được thêm chất sắt, nhưng chúng lại bị suy nhược thần kinh do thiếu ngủ. Về tài chánh, việc mất đi khoản tiền du khách thường đem về khi thăm thú làng hoa đã gây thiệt hại lớn cho ngân sách thành phố. Không chỉ thế, năng suất lao động của dân thành phố giảm. Họ bị stress bởi sống trong một không gian buồn tẻ của một thành phố quanh năm suốt tháng khô khan với những con đường nhựa chạy dưới nắng, với những ngôi nhà méo mó không tính cách và mòn mỏi. Kết luận là, cũng như một thiếu nữ tính khí bất thường, nay thành phố muốn thay chiếc khăn voan nhàm chán của mình bằng một chiếc khác rực rỡ hơn. Quan trọng nhất là những cái máy mới này đã cảm được một điều khác. "Đây là làng văn hóa". Cái thư nói rõ ràng như thế, hơn thế nữa, thư còn khẳng định ở một dòng khác có gạch dưới, "Một làng văn hóa của hoa". Những tay chụp hình lại đổ xô về làng ngay từ khi dân làng bắt đầu công cuộc phá bỏ những luống rau đầu tiên, với hứa hẹn đem về cho làng những danh tiếng khác thông qua một loạt giải đang được thành phố tổ chức nhằm khích lệ việc khôi phục một ngành nghề cũ. Dân làng sau một hồi ngơ ngác, đã ngoan ngoãn chấp nhận quyết định này một cách bình tĩnh với sự dày dạn của một thế hệ từng trải qua nhiều sóng gió. Họ lặng lẽ phân công nhau chăm chắm trồng hoa trở lại mà không hề tự hỏi liệu sẽ có những đổi thay nào khác nữa không. Nhưng lần này có lẽ hoa sẽ theo họ suốt đời, bởi trong lá thư có một kết luận chính thức, và thoải mái: "Cuộc thử nghiệm đến đây là kết thúc".

    Rất nhanh chóng làng lại trở thành một dải khăn nhiều sắc mầu, bởi đất làng dù sao cũng chỉ hợp với đặc sản hoa mà thôi. Cùng với những tấm ảnh về hoa được trao giải nơi này nơi nọ, du khách đã biết làng hoa hồi sinh và quay trở lại với những túi tiền hào phóng. Thành phố như một phụ nữ trải qua nhiều sương gió, lấy chồng rồi bỏ chồng, nay đã biết nên dùng mầu khăn nào để hợp với mình. Những lứa trẻ con mới ra đời tiếp tục được ngủ mê man suốt ngày, ngửi hoa mà lớn lên, trong khi cơ cấu lao động của làng cũng không có gì thay đổi, với những người dậy sớm gánh hoa ra chợ, những người dậy trễ hơn lo tiếp đón du khách và tưới tiêu. Tất cả nhanh chóng hưởng lại cuộc sống thanh bình xưa kia, cùng sự vô tư như là đặc tính của họ nhằm duy trì một đời sống bình yên. Nghĩa cử có tình nhất mà họ có thể có được, là ngày ngày đi rải một lượt hoa tươi trên những ngôi mộ cũ xưa trong nghĩa trang nhưng không mảy may nhớ nằm lẫn giữa những nấm mồ vô danh kia là nơi yên nghỉ của một người từng là biểu tượng văn hóa của làng. Một người sinh ra giữa hoa, lớn lên với hoa, xinh đẹp và già nua đi với hoa. Con người đã từng là biểu tượng của sự bất tử ấy, trong những ngày cuối đời đã sống với một nỗi tuyệt vọng rằng, hoa của bà đã bị rau thay thế mãi mãi. Cũng may, quãng đời thử nghiệm ấy của bà chỉ là một khoảng thời gian ngắn ngủi mà mọi người rồi sẽ quên đi.
    [/FONT]
     
    KDC and LeTruongps like this.
  16. Ajinomot

    Ajinomot Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Rồi lá cũng Bay[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trần Thùy Dương[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hắn muốn phá lên cười sằng sặc, cười như chưa bao giờ được cười. Thế là cái gì nhỉ? Ừ, thì một lời tỏ tình bị từ chối. Sao nữa? Thế là sao nào ? Chẳng sao cả. Quên uqách cô ta đi, cái cô gái đắng đo trong từng lời nói ấy. Mà con gái là chúa đắng đo

    Cô ta đã chết rồi, hay là hắn chết? Hắn muốn được nằm vật trên gường, ngửa hai tay ra và nhìn những ngôi sao đang mờ dần trên bầu trời. Cô ấy cũng giống như một ngôi sao, xa vời vợi. Hắn ôm mặc khóc rưng rức. Đêm không giúp gì cho hắn. Những bông hồng vô dụng. Những giọt sương đêm không làm cô ấy mềm lòng.

    Hắn không ngờ mình quay lại ngôi nhà cô gái với cây bàng trước cửa. Chỉ để ngắm những lá bàng rụng và gió cuốn đi rất xa. Hắn nhớ sợi tóc cô ta óng ánh trong bóng tranh tối tranh sáng của bóng bàng. Hắn ước gì tất cả quay lại từ đầu, lúc hắn chưa nói và chưa bắt cô ta phải chọn lựa. Nhưng hắn biết, rồi hắn lại hành động như thế mà thôi. Hắn ướt gì có thể vứt đi lòng kiêu hãnh để quay lại quì xuống chân cô ta, để cầu xin dù chỉ là một tình bạn vô phương hy vọng. Hắn chờ đợi tất cả qua đi như lá bàng rụng khô nằm trên mặt đất. Hắn vịn vào viên thuốc ngủ để đi qua những đêm mệt nhọc. Nhưng hắn luôn thức dậy lúc 2 giờ sáng và lại thấy mình lạnh buốt đi ngoài đường, thấy mái tóc óng ánh của cô ta, thấy bàn tay dịu dàng, kiên nhẫn rút dần khỏi tay hắn và tiếng kẹt khô khốc của then cửa-dóng lại trước mắt hắn. Đến ba giờ sáng, hắn ngủ thiếp và mơ thấy mình hóa thành một chiếc lá bàng.

    Hắn nghĩ rằng mình phải thoát ra khỏi những giấc mơ điên rồ đó. Hắn khoác ba lô ra đi. Hắn sẽ về lại gác chuông của ngôi chùa xưa, nơi lần đâù tiên hắn hẹn gặp cô gái đầu tiên. Mối tình đầu của hắn. Những bông hồng trắng xóa màu thời gian. Ngày xưa hắn mơ ước được hóa thành một bông hồng trên tay cô gái ấy.

    Chuyến đi không suông sẻ như hắn nghĩ. Tưởng rằng về thẳng vườn chùa với gác chuông xưa nhưng không hiểu sao hắn lạc vào một vườn xương rồng, hoa xương rồng nở đỏ chi chít quanh hắn như từng giọt máu. Hắn sợ quá, chạy đạp lên cả những gai xương rồng, nhưng lạ thay, hễ hắn chạm vào, mỗi chiếc gai lại hoá thành một bông hoa đỏ, vẫn nhỏ xíu và thắm thiết như một giọt máu. Hắn thấy gác chuông đằng xa và chạy tới nhưng, nó cứ thấp thoáng lúc bên phải, lúc bên trái. Có lúc hắn tưởng như đã đến nơi thì đột nhiên chỉ thấy một màu mây phiêu bạt trên những bông xương rồng. Nhưng hắc đâu phải là kẻ chịu thua, từ xưa tới nay, hắn chưa bao giờ tha thứ cho kẻ đùa giỡn với hắn. Hắn nhổ một cây xương rồng và nén vào đám mây như ảo giác kia. Đột nhiên hắn nghe thấy giọng lạnh lùng của hắn:

    - Tôi không yêu em nữa. Tôi không biết nói thế nào. Chỉ đơn giản là không còn cảm thấy gì hết. Mai tôi đi Hà Nội.

    Hắn ngạc nhiên thấy mình thậm chí không còn cảm thấy áy náy. Hắn quên cô gái đầu tiên ấy cũng rất nhanh chóng như đã từng nhớ cô ta vậy. Bây giờ, đột nhiên hắn mới hiểu rằng cô ta không bao giờ quên hắn. Và điều đó thật kinh khủng. Giống như hắn bậy giờ. Hắn điên cuồng chạm tay vào những gai xương rồng, chúng theo nhau hóa thành hoa, nhưng không có lấy một bông hồng. Hắn nhớ đã hái trộm một bông hồng bạch -tặng cho cô ta. Và cô ta đã dùng những chánh hoa ấy để gieo lên vườn này ử

    Hắn nghe thấy tiếng tích tắc của đồng hồ và biết rằng mình đang mơ. Nhưng hắn cũng không sao tỉnh lại được. Hắn vẫn cảm thấy mình đang đi. Bỗng nhiên, hắn hiểu rằng lúc ấy là hai giờ sáng và hắn đã tỉnh dậy.

    Hắn mở tung cửa sổ. Đêm nay trời trở rét. Gió thổi mạnh đến mức như át cả tiếng then cửa lách cách mà hắn nghe thấy đâu đây.

    "Bây giờ là ba giờ sáng". Hắn thầm nghĩ - "Nếu bây giờ đi ngủ lại, hắn sẽ hóa thành một lá bàng, mà đêm nay, gió thổi mạnh lắm, hắn sợ sẽ bị cuốn đi rất xa, rất xa..."

    Sáng hôm sau, khi cô bé tỉnh dậy thì gió đã rải những chiếc lá bàng dọc phố nhỏ. Trên cây chỉ còn một chiếc lá nhỏ nhoi đang giẫy giụa giữa những làn gió mạnh. Cuối cùng, nó đã rụng xuống khi cô vừa mới tới cửa. Mẹ bảo:

    - Con quét sân đi. Sắp có xe rác tới rồi.

    Tiếng chổi lẹt quẹt trên sân gạch cùng hòa tiếng leng keng của xe rác đã đến đầu phố. Cùng với một đống rác bẩn, chiếc lá bàng cuối cùng được hốt lên xe.

    Cô bé chống chổi, nhìn cây bàng thầm nghĩ:

    - Cây bàng rụng hết lá rồi. Từ ngày mai mình không còn quét sân nữa.

    [/FONT]
     
    KDC and LeTruongps like this.
  17. Ajinomot

    Ajinomot Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Rối loạn tiền đình[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Diệp Bá Hương[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Diệp nằm mẹp trên salon phòng khách. Hai chân hơi co vừa lọt lòng ghế. Tay trái buông xuôi dọc theo mình. Tay phải vươn dài, vắt qua mặt bàn kiếng. Đầu gối cao lên tay ghế. Nằm lắt lẻo co ro như vậy hơi bị cấn ở sau ót, nhưng thấy dễ chịu hơn so với kiểu nằm sải tay thẳng cẳng trên tấm nệm êm dày ba tấc, kê trong phòng ngủ.
    Diệp nghĩ như vậy rồi tự cười nhạo chính mình. Xạo quá!
    Mình rất đang yếu mệt trong người. Lảo đảo lần vách, bám tường miết mới vô tới được trong nhà. Chân tay quần áo còn dính đất, âm ẩm nước tưới cây lạnh ngắt, lấm tấm cả vụn lá mục và phấn hoa nữa, nên không dám nằm vật lên tấm ra trải giường mới giặt hôm kia, đành ráng lết thêm chín mười bước nữa ra đây. Buông mình nằm ịch xuống rồi, nghỉ ngơi một lát mới thấy đỡ chóng mặt quay mòng mòng, chớ có phải nghe dễ chịu liền ngay lập tức đâu mà dám nói bảnh như vậy.
    Hình như Diệp đang nói ra thành tiếng hay sao ấy. Như đang có Khương ngồi trước mặt. Như Khương đang nghênh ngang, chế giễu Diệp mỗi lần hai đứa lôi nhau vào chỗ lời qua tiếng lại.
    - Người gì mà mở miệng là tiếng nào tiếng nấy nghe như đẩy cái nút tiếng treble lên tới đụng nóc, the thé chói lói xói tai, bén lạnh cả người như rờ qua lưỡi dao mới mài.
    - Ờ. Vậy đó. Không ưa thì thôi.
    - Có ai ưa đâu.
    Diệp thu cánh tay đang vắt qua bàn về để gác ngang trán, thở dài một tiếng lê thê hận oán người và cam chịu cho mình.
    Lại tưởng tượng nữa rồi.
    Khương làm gì được phép ở đây. Gã đang ở đâu đó, Ban Mê, Long Hải, Cần Thơ… chỗ người quen, bà con nào ấy, mà Diệp từng vênh mặt nói "chả cần biết!".
    Nhà này sổ đỏ giấy hồng đều đứng tên Diệp, là của cải riêng Diệp. Trong hộ khẩu không có tên Khương. Khương chỉ là kẻ tạm trú trong đời Diệp. Diệp là cái nhà trọ, cái khách sạn mà Khương là khách vãng lai đã biết tên quen mặt.
    Khương nhếch mép bất cần mỗi lần Diệp chua chát ví von như thế.
    - Gì cũng được. Muốn nói sao thì nói. Tự nói ra tự chịu lấy.
    Diệp nổi khùng lên:
    - Vậy thì đi chỗ khác. Ở đây hết phòng rồi.
    Hôm qua cũng nói như vậy. Thế là Khương đi.
    Diệp cũng đi. Diệp leo lên chuyến xe đò tốc hành chạy suốt đêm. Hai giờ sáng, xe thả Diệp xuống ngay đầu hẻm, cuối một con dốc mà xe đạp muốn lên đó phải dắt bộ. Diệp lom khom leo dốc đi về nhà. Trời lạnh nhức nhối mấy đầu ngón tay ngón chân. Lạnh đến nỗi mấy con chó nằm co trước hiên nhà cũng không buồn sủa.
    Tiếng là có nhà nghỉ mát ở Đà Lạt, nhưng chỉ là căn nhà cấp bốn trong xóm lao động. Sàn gỗ, vách bằng gì không biết mà vợ chồng nhà kế bên rù rì âu yếm, bên này cũng nghe rõ từng tiếng bổng trầm, ngắt quãng.
    Bức vách còn lại nhìn ra bãi cỏ hoang, chơ vơ một cây thông cao to. Sân trước là đường hẻm cụt. Sân sau có mảnh đất trống. Lần trước lên, Diệp trồng hai cây ớt, một cây cà chua. Lần này lên lúc khuya, sáng ra mở cửa vươn vai nửa chừng đã ngừng lại kinh ngạc. Một vạt sao nhái màu hồng phấn, màu đỏ cánh sen, màu tím hoa sim, màu trắng sữa đang vươn cao qua đầu Diệp. Vô số chùm lá hoa uốn éo trong gió lạnh. Hoa vùng cao nở to hơn miệng chén chè, chứ không nhỏ nhít như đồng xu khi mọc ở vùng thấp. Diệp kêu: Đẹp quá! Thanh bình!
    Diệp ở tới nay là ba ngày. Sáng hôm qua, dậy sớm, mang găng tay xỏ giày ra ga xe lửa. Đứng nhìn vẩn vơ những hàng bắp cải xanh xám thẳng tắp, về ghé chợ nhỏ, mua xà lách xoong xanh rượt, ngắt giòn tanh tách vừa gánh lên từ đám rẫy ngay bên dưới con đường có chợ. Sáng hôm nay xuống dốc, dọc theo bờ hồ vào chợ đi lơ ngơ trong dòng du khách nô nức ướm thử áo len, nhấm nháp mứt dâu ngọt gắt, khoai lang sấy dai nhẳng…
    Trưa ra sân sau, tìm mãi mới thấy còn một cây ớt lẫn trong đám cỏ hoang. Diệp hái trái chín đỏ. Mình sẽ hưởng cái thú được ăn cây trái tự tay mình trồng. Còn trái chín rục để lại, cho nó tự gieo hạt lên cây khác. Cây cà chua cũng có hai trái, non xèo. Không chừng bên trong ruột, hột còn chưa tượng hình.
    Diệp vặn rôbinê, hắt lên đám bông hoa rực rỡ ẻo lả ba bốn xô nước lạnh như đá tan trong ly.
    Đang hăng hái trong vai người làm vườn thì Diệp thấy người mình khẽ chao đi một cái. Chân đứng không vững, xô nước tuột khỏi tay rơi bịch xuống rồi văng lên cùng với bụi đất. Mặt ướt, vớ cũng ướt.
    Điện thoại treo trên vách phòng ngủ khẽ rên lên. Diệp đã gài volume mức thấp nhất, rút kinh nghiệm từng bị giật nẩy mình vì chung quanh triền miên vắng lặng.
    Diệp chậm chạp nắm lưng ghế nhổm dậy, rón rén thả hai chân xuống. Nhưng vẫn ngồi tại chỗ, nghe ngóng xem có chao đảo gì không.
    Chuông chưa chịu ngừng.
    Biết chắc đứng lên không bị chúi nhủi, Diệp lò dò vịn lưng ghế, cạnh tủ, màn gió tới chỗ điện thoại. Diệp nói alô yếu ớt.
    Tiếng Khương mạnh khỏe, vui vẻ:
    - Sao rồi? Ngủ chưa dậy hay là đi chơi mới về?
    Diệp đổi giọng lạnh như trời khuya Đà Lạt:
    - Chóng mặt.
    - À. Hội chứng tiền mãn kinh ấy mà. Uống thuốc đi.
    Diệp cười một tiếng qua lỗ mũi, nhạt nhẽo, khinh bạc:
    - Ừ.
    Rồi gác máy, lần mò ra nằm lại trên cái ghế dài hồi nãy.
    Chuông điện thoại lại reo. Lần này chưa alô đã nghe Khương nói léo nhéo gì đó, không rõ, Diệp gắt:
    - Nhắc lại!
    - Bị rối loạn tiền đình mà nằm một mình cô độc lắm. Gọi cho nhà có tiếng người. Đỡ lo bị xì trét.
    - Thôi đi. Biết người ta bước như con nít mới tập đi không? Biết từ ghế xalông tới trong này bao xa không? Muốn xỉu mà cứ đi tới đi lui, thế nào cũng té xuống, nhập thổ ngay tại chỗ.
    Khương nói hồn nhiên:
    - Vậy thì cứ để chuông reng đâu có sao. Biết có người quan tâm tới mình là được rồi.
    [/FONT]
     
    KDC and LeTruongps like this.
  18. Ajinomot

    Ajinomot Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Rồi sẽ yêu Ai[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phan Thị Vàng Anh[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]"Hoàn ơi, có thằng mết mày lắm đấy. Ở cùng tổ mày, nhà trên đường mày về. Mày đứng, nó ngồi thì cao bằng nhau". Cả bọn ngồi vắt vẻo trên lan can nhìn tôi chờ đợi .

    "Tao biết rồi, thằng Tường chứ gì? Nó đáng tuổi em tao!".

    Tôi biết có nói cũng thừạ. Giờ này trường vắng tanh. Văn phòng, căng tin đều đóng cửa. Thực tập xong, chúng tôi ở lại một chút để tán dóc. Con gái 19, 20, chuyện nào cũng quay về chuyện tình yêu. Tôi băn khoăn nhìn Lan và Xuân, không hiểu tụi nó nói đùa hay thật về cái tin lúc nãy nhỉ?

    Tường nhỏ hơn tôi ba tuổi. Hôm qua là sinh nhật nó, tôi vào căng tin mua một gói me: "Mừng oắt con thêm một tuổi nhé" Tường không cười, chăm chú nhìn gói me: "Sao lại không thêm được ba tuổi nhỉ". Vì sao hôm qua tôi lại không nghĩ gì cả. Trong thâm tâm, tôi coi nó như em, con gái trong lớp cũng coi nó như em út.

    Tôi đọc một quyển truyện nói về tình yêu giữa một cô bé và một người lớn tuổi. Vì chênh lệch nên họ xưng hô là "ông" và "em". Khép sách lại, tự nhiên tôi nảy ra ý nghĩ vô cùng bất ngờ là mình phải có một người lớn để yêu và phải hơn tôi nhiều tuổi để có thể áp dụng cách xưng hô của truyện. Người ta bảo con gái hay coi thường con trai bằng tuổi, và tôi, tôi đã chán cái cảnh ngồi cải nhau om lên với mấy thằng bạn trong lớp chỉ vì chép khác nhau một chữ trong bài.

    Tôi hỏi mẹ: "Nếu bồ mình lớn tuổi quá thì mình gọi là ông, xưng là em hả". Mẹ đang đếm tiền nên cáu: "Im đi, tao nhầm bây giờ. Mà mày bồ với người lớn làm gì? Ðể con rể là bạn của tao với ba mày à?".

    Sáng nay không có nắng, trời lại có vẻ muốn mưa. Gửi xe xong tôi đi vòng vòng qua cây thị xem may ra có nhặt được quả nào không. Tổ trực đêm qua đã vơ vét hết, chỉ để lại mấy quả nát bét trên sân. Sân hành lang, tôi gặp Tường, nó đi ngược lại, xòe năm ngón tay ngó ngoáy như định móc mắt tôi, cái miệng non choẹt méo qua một bên. Tôi bảo: "thằng điên!". Tường bỏ vào túi tôi một quả thị con rồi cùng đi vào giảng đường. Hai tiết đầu là Sinh Vật, tôi luôn luôn quên đem viết chì. Thầy Sinh vật chưa già nhưng dáng đi chậm chạp, các bạn của tôi gặp thầy đi chợ mua toàn những bó rau bé tí, phòng thầy ở trọ cũng bé tí. Tôi nghe kể bỗng thấy mũi mình cay cay. Lan ngồi cạnh tôi, mặt bé như con chuột con, chép miệng như một bà già: "Trí thức chân chính là khổ thế đấy!". Tôi nhìn nó, phì cười, không hiểu cô ả học phong cách người lớn ấy ở đâu .

    Tôi ở lại trường buổi trưa. Tất cả lên hành lang các phòng thực tập ngủ. Con gái ở lầu hai, con trai ở lầu ba. Ðôi khi có những cậu sinh viên lớ ngớ xuống nhầm lầu làm các cô nháo nhác như gà phát hiện ra trong chuồng mình có chuột. Ngủ dậy, ở vòi nước rửa mặt, tôi gặp Bảọ chờ tôi, nôn nóng: "Ði uống nước, Hoàn!" - "Sắp đến giờ rồi!".

    "Còn mười phút nữa mà!". Bảo bằng tuổi tôi nhưng người lớn hơn, là một nhân viên chép bài hộ khi tôi nghỉ học. Nước chanh ở trường tôi rẻ và dở hơn bất cứ nơi đâu, vị ngọt của nó làm người ta càng khát hơn. Cuối căng tin, Tường ngồi với mấy đứa bạn, nhìn tôi buồn bã, miệng hút thuốc phì phèo . Bảo nói với tôi ra vẻ đàn anh: "Tường nó đang tập thở ra vòng tròn!". Tôi không hiểu hút thuốc thì ngon lành gì nhỉ? Ở phòng thực tập, Tường úp mặt lên cái túi của tôi trông thảm não lắm. "Tường đau đầu hả, xin nghỉ đi!". "Không, sao Hoàn lúc nào cũng muốn tôi nghỉ học?". Tôi nhìn cái gáy trẻ con của nó, tóc có cái đuôi dế mèn, người ta bảo đây là dấu hiệu của trẻ con ăn tham. Tôi đi mượn dầu, dù biết rằng dầu chẳng có tác dụng gì trong việc nàỵ "Thôi đi Hoàn, tôi có bệnh đâu mà cần dầu". Tôi thừa hiểu cái giọng trách móc ấy nhưng cố giả ngu ngơ "Vậy Tường buồn khổ cái gì mà thảm vậy? Ai làm khổ Tường?". "Chẳng ai cả, tôi làm khổ tôi" rồi nó bỏ sang bàn thực tập bên cạnh. Tôi thắng 1-0.

    Hình như tôi đã có tình cảm gì đó dành cho Tường. Rất dịu dàng, mơ hồ... không thể hiểu nổi. Mặt Tường non choẹt, răng khểnh dùng vào việc nhe ra trêu tôi hơn làm dùng đẻ^ cười duyên. Cả lớp hình như lờ mờ đóan ra, nhưng Tường chỉ bằng tuổi em tôi! Buổi chiều tôi, Xuân, Lan ngồi học bài trên hành lang dẫn vào thư quán. Một chỗ ngồi lý tưởng trên đầu là tàn me, nhìn xuống hồ cá như một quả tim xây theo kiểu tượng trưng. Ba đứa ngồi xa nhau để tránh nói chuyện. Chợt tôi nghe Lan rít lên nho nhỏ: "Em mày kìa Hoàn!" rồi tôi nghe rất rõ bước chân Tường đang tới gần, gần lắm rồi đi mất, không có gì thêm. "Sao kỳ vậy Hoàn, mày và nó giận nhau hả?" - "Không, quen vậy rồi, xem kẽ một ngày là lơ, một ngày vồn vã, hai đứa điên mà!". "Tếu vậy! Tụi mày làm vậy để làm gì?". Tôi cũng chịu, không hiểu cả cái trò ú tim này dùng để làm gì. Có lẽ, cả tôi lẫn Tường đều sợ người kia đoán được tình cảm của mình cho nên có ngày, cả hai cùng vui quá mức, có ngày lại lạnh như tiền. Chị tôi bảo "Ðồ con nít!". Tôi vặn lại: "Khi đi học, bà có vậy không! Bà chị tôi đanh mặt: "Tao không điên như mày!". Có lẽ tôi điên thật!

    Ban đêm, trường tôi như khác hẳn, vắng lặng. Tự nhiên xuất hiện mấy con mèo to tướng, mắt sáng quắc, chạy vụt trong sân tối . Tôi ngồi trên bệ tường, đằng sau là cây mận hương hoa ngai ngái dễ chịu; phía dưới là vòi nước khóa không kỹ, nhỏ tí tách, tí tách. Tôi muốn ngồi một mình như thế này mãi không phải nói chuyện với ai, thở cái không khí mát mẻ, lạ lùng của ngôi trư+ờng ban đêm. Ddêm nay, chúng tôi trực, không chèn cháo vì trường sẽ cúp nước. Mỗi tổ viên mang theo một loại bánh kẹo để liên hoan chung.

    Có tiếng chân bước lại, tôi biết là Tường nên quay mặt về phía sân trường nơi ánh sáng của mấy ngọn đèm nê-ông xanh xao hắt xuống. Quay đi như thế này sẽ làm tôi đỡ bối rối hơn. "Vô lâu chưa Hoàn?" - "Mớị Tường mới vàỏ" - "ừ. Mệt quá!". Sau cái câu muôn thuở đó, chúng tôi ngồi im. Ngày thường tôi vẫn hay tưởng tượng một hoàn cảnh như tối nay, ngồi cạnh Tường, tôi sẽ kể mọi thứ chuyện cho Tường nghe. Vậy mà lúc này, đầu óc tôi trống rỗng, bối rối cực độ...

    Tường ngắt một cái lá mận, vò vò rồi đưa tôi: "Hoàn ngửi thử coi, giống như sắp được ăn mận vậy!" Tôi cầm lấy và thấy bàn tay mình bị giữ lại một cách vụng về của trẻ con. Mọi ngày, tôi vẫn mong sẽ hiểu được tình cảm Tường giành cho tôi, yêu hay không yêu, đừng ú tim nữa. Nhưng lúc này, một tiếng nói khác trong tôi, rã rời: "Thôi, thế là hết, chẳng còn gì là bí mật nữa!". Tôi cười: "Tường còn trẻ con lắm, đừng bao giờ làm cái trò này nữa nhé!". Mắt Tường bối rối rồi cụp xuống hối hận, cả tôi cũng hối hận ngay lúc đó. Tường bỏ ra bàn trực cách không xa nơi tôi ngồị Hai phút sau đã nghe tiếng cười của Tường và tôi bắt đầu rối trí.

    Ðêm trực đi qua, Tường hút thuốc và đánh cờ như mọi khi và tôi càng bối rốị. Sáng ra, Tường lấy xe về trước, để tôi lại saụ Mặt Tường bình thản, còn tôi, tôi hối hận vì sao đêm qua, mình thốt ra cái câu điên rồ ấy... Có lẽ, chẳng bao giờ Tường tỏ tình lần thứ hai với tôi?

    Tôi mua những đặc san về tình yêu, không thấy hoàn cảnh nào như vậy. Mỗi sáng, tôi mong vào trường gặp lại Tường, nhìn quanh quất giảng đường, tìm cái dáng cao cao quen thuộc. Chiều nay, trời mưa và tôi buồn hơn. Tường không vào ôn bài nữạ Mặt Tường không tỏ vẻ buồn bã nhưng lạnh lùng, xả giao với tôi hơn xưa. Giờ thì đến lượt tôi khổ vì Tường, Tường không chào bằng những cái méo để tôi có thể mắng "Thằng điên" được nữa, bây giờ Tường gật đầu như người lớn chào nhau. Tôi đưa Tường cái kẹọ Tường cười: "Cảm ơn nhe!". Tôi muốn vặn cổ hai chữ "cám ơn".

    Tôi hỏi mẹ: "Mẹ này, yêu người nhỏ tuổi hơn thì buồn lắm nhỉ!" - "Không biết, sao chẳng bao giờ mày hỏi về yêu cùng tuổi thì như thế nào, lúc thì đòi chơi với ông già lúc thì đòi chơi với trẻ con!" - "Không phải con mẹ ạ! Con bạn con..."

    Mẹ ngủ rồi, tờ báo rơi bên cạnh. Ngày mai, tôi sẽ mua một quyển sổ làm nhật ký. Không thể tâm sự cùng ai những trò ấm ớ này.
    [/FONT]
     
    KDC likes this.
  19. Ajinomot

    Ajinomot Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Rơi trái ấu thơ[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Nam An[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyên một khu đất rộng mọc toàn cỏ lau. Bên này là đường Nguyễn Du, bên kia Lý Thường Kiệt. Nơi đường Đống Đa, dọc theo đường rầy xe lửa người ta họp lại mua bán và biến thành chợ từ lúc nào. Buổi sáng có những gánh hàng rong, gánh chè, xôi bắp, bún mắm. Khoảng gần 9:00 giờ sáng, những người bán cá biển mới đánh về mang đến những cá những tôm còn tươi rói lên từ hải cảng. Bốn năm giờ lại có cá chợ chiều. Thế đó chợ họp suốt ngày. Thế đó chợ có tên là chợ Đống Đa từ hồi nào.
    Nhà ba mẹ tôi ở xóm Thuận Lập B, gồm những gia đình nằm trong khu vực bao bởi đường Nguyễn Du, Đống Đa, Gia Long, và Lê Lợi. Vào trong xóm có mấy con hẽm, nối liền đường này với đường kia. Hẽm lại chia những ngõ cụt. Nhà bác tôi ở cuối cùng một ngõ cụt như thế bên cạnh nhà ba mẹ tôi.
    Có hôm đang học bài, bác bảo chị Út sang kêu tôi ra giúp ai đó. Tôi đi ra thì bác chỉ hai cô nhỏ, mặc áo dài trắng, đang cố nổ máy chiếc xe Honda. Hai cô đi lộn đường nên dính vào cái ngõ cụt. Chiếc xe gắn máy không thương lại dỡ chứng. Thế là hết cô này đến cô kia thay nhau mà trị chiếc xe.
    Bác tôi chỉ hai người đó, nói tôi ra giúp. Tôi đâu biết gì về xe với cộ nên gọi tôi làm cho chiếc xe nổ máy là trật đường rầy. Tôi đứng ngó hai cô. Họ đứng ngó tôi. Tuổi mới lớn tôi cù lần thế đó.
    Một lần ai đó chạy xe sang nhà tôi. Cũng xe gắn máy nhưng chiếc xe này ngoan. Nó không nằm vạ làm khổ chủ nhân. Chủ nhân đây là cô nhỏ có mái tóc demie-garcon, từ lớp sáu đã nổi tiếng xinh. Hôm nay người đã học lớp chín. Người dừng xe trước sân, hỏi có em người sang chơi. Tôi ngu như gì. Gặp người mừng lắm nên quên hết mỗi ngày mình vẫn chạy ngang con đường nhà người ở để mong gặp mặt. Dì tôi thấy tôi đứng ngớ ra, nhắc nhỏ con mời bạn vào chơi. Tôi bỏ vở bước ra hiên nhà. Vừa đi vừa trả lời câu hỏi của người : “Cu không có ở đây”. Nghe xong người cám ơn rồi quay đầu xe đi về.
    Tôi đứng ngó theo mong sao cho xe tắt máy như chiếc Honda của hai cô nhỏ đi lạc. Nhưng không, xe của người chạy ngon ơ. Mới vài phút đã khuất khỏi căn nhà cuối ngõ cụt.
    “Ai vậy con ?”
    Dì tôi hỏi dò.
    “Dạ bạn con.”
    “Dễ thương quá hí.”
    Điều này tôi biết mà. Đi học trên trường tôi nghe tụi nó to nhỏ hoài.

    Thuở trung học miệng tôi như bị ai dán băng keo. Thường ngày tôi vốn ít nói nay lại càng nói ít những khi có dịp gặp cô nhỏ. Tôi biết người học lớp nào, biết thời khóa biểu, và biết để không có cảm tình mấy với những tên học lớp lớn hơn vẫn theo người. Tôi cù lần tập tểnh làm thơ, phải vần phải luật loạn cả lên nhưng chẳng là gì cả. Những bài thơ mà nay đọc lại chính tôi cũng chẳng hiểu nổi tôi muốn nói gì lúc đó. Cũng may tôi không ở trong thi văn đoàn nào để bạn bè xúm lại khen nhau. Nghe khen mãi rồi tưởng thật để coi trời bằng cái cốc cà phê! Thuở đó nếu tôi dám gởi cho người đọc những gì viết nắn nót trên giấy mà chữ không được đẹp, không biết số phận những bài thơ quờ quạng đó cũng như tác giả sẽ đi về đâu. Đi về đâu cũng được nhưng lạy trời đừng bị chuyền tay đám con gái trong lớp học. Tụi nó mà đọc rồi ghi chú là tôi hết đường “đi vào văn học sử”. Mà vào đó để làm gì à sao người ta quan trọng đến thế.
    Nơi tôi sinh ra: “Thành phố có con sông không chạy vòng mà thẳng. Có nắng đoản hậu mùa hè, gió bấc lạnh thấu... mùa đông. Đạp xe vòng vòng mười lăm phút hết. Nhưng anh theo em về xưa cũng mệt quá chừng. Em đạp xe mini chiều đi đâu chỡ gió. Cho áo lộng đôi tà thiên hạ rớt xa xa. Em tóc demie-garcon của thời anh rất lạ...” giờ chắc đổi rồi như trường trên đường Lê Lợi, trường bên kia Thống Nhất.
    Thuở đó người đâu biết người là số một. Kết quả bầu cử ngầm của đám mới lớn. Thế nào đó tụi trường nam biết rồi chuyền tai nhau. Tôi nghe và biết đường mình theo dài cả dặm. Số một ở trường nữ kéo sau lưng thêm những hàng dài áo trắng. Số một đúng nghĩa chứ không phải số một mà đàng sau chẳng có ai là số hai!
    Thi lục cá nguyệt xong, thầy giao cho đứa đứng đầu đem kết quả về làm vị thứ. Tôi bị dính. Thằng nhỏ trịnh trọng mang xấp bài thi Lý Hóa của thầy Nguyễn Tòng cùng Thành Tích Biểu cả lớp về nhà. Trước khi sắp hạng tôi sẽ khoe với mẹ và dì tôi để vòi tiền thưởng. Rạp Kinh Đô đang chiếu Đường Sơn Đại Huynh. Được tiền tôi sẽ rủ bạn bè đi coi thằng Lý Tiểu Long. Có “chai mặt” lắm tôi cũng không dám mở miệng hỏi người vì đối với đám con gái, lúc đó Lý Tiểu Long hay Lý Tam Cước đâu là cái quái gì. Ham chơi bóng rổ tôi gởi thằng Cu em người xấp học bạ và bài thi của lớp. Nó có cái cặp to chứa không hết đồ lẩm ca lẩm cẩm của tuổi mới lớn. Không biết sao thằng này lại khoái để trái cây dầm chua và ô mai trong cặp. Chắc chắn không dành cho nó rồi mà để cho người nào đó. Mục này tôi chưa biết vì... của mình chưa đến mức đó. Đi học về mới thấy bóng dáng người bên kia đường là tôi mừng. Mừng lắm! Chuyện khác... thằng nhỏ chưa dám nghĩ đến. Tôi lại ngại nhờ bạn bè thân làm quân sư. Biết đâu có thằng cũng thương thầm trộm nhớ người thì “ô hô ai tai.”
    Chơi xong bóng rỗ thằng em người quên gởi lại tôi xấp học bạ. Nó mang luôn về nhà. Thế đó có người tò mò coi thử cái lớp này nó ra sao? Kéo nhau đi đánh lộn thì bên Phan Chu Trinh thầy giám thị đã nhẵn mặt. Thôi để coi hình, coi vị thứ và coi luôn lời phê của giáo sư phụ trách môn học. Cái hình chụp từ những ngày bắt đầu thi đệ thất tôi còn dùng cho bốn niên học sau! Tôi nhìn thấy ngố lắm nhưng kệ miễn sao thầy phê ngon lành trong thành tích biểu là ăn tiền... của mẹ và dì! Tiểu sử học đường của đám lớp tôi và những tên hay qua lại trước ngõ nhà người vì thế được soi dưới kiếng hiển vi của đôi mắt đẹp. Có đứa con nhà giàu, đẹp trai, học giỏi và không giỏi. Có đứa “thông minh” nhưng không chăm chỉ. Có đứa sao nhìn hình không giống bên ngoài. Hy vọng tôi không bị phán “hắn hay theo... hoài”.

    Về sau tôi để ý đến Việt Văn hơn toán. Tên người bắt đầu bằng chữ B. Tên tôi là A. Ngày nào tôi viết được thư, trong đó có đoạn “a cọng b bình phương thành... [ (a + b)2 = a2 + 2ab + b2 ] có lẽ tôi chọn ban văn chương khi lên trung học đệ nhị cấp. Tôi sẽ gởi bài cho Tuổi Hoa hay Tuổi Ngọc rồi thừa thắng xông lên lập luôn thi văn đoàn xóm nhỏ! Cũng may, thầy dạy Việt Văn của lớp, một nhà thơ nhà văn có bài đăng ở các tạp chí Sài Gòn đã “dìm” tôi xuống, để hôm nay tôi mới “nổi” lên được với cái truyện chẳng ra đầu ra đuôi này! Thầy cũ của tôi mà đọc được bài viết hôm nay chắc tôi ăn hai con “trứng vịt” tròn vo.
    Miền Trung đã có những tháng mưa dầm mưa dề. Đứng dưới mái hiên lợp bằng tôn, nghe mưa dồn dập tôi chẳng muốn đi đâu; chẳng muốn làm gì mà cầu sao cho mưa ướt hết đầu tóc được hớt ba phân để làm ... thi sĩ. “Chiều mưa bay nghiêng chút niềm riêng đây đó...” hay “Có con chim sẻ trên đầu ngọn cây. Vỗ cánh chim bay qua cái nóc nhà. Mái thấp lợp tôn mưa ồn thức giấc. Có gì tràn đầy như đất nước xa...” Qua nhà người tìm mượn cuốn tập chỉ là cái cớ. Tôi đứng dưới mái hiên nhìn mưa và nói gì đâu. “Mưa Sài gòn, Mưa Hà Nội” không biết sao chứ mưa thành phố tôi lúc đó vui lắm. Ít ra khi mưa trúng ngay bữa lang thang mà không biết đi đâu. Qua lại con đường quen, tìm cớ ghé vào để mong gặp mặt... Em người cho mượn cái áo che mưa của ai đó trong gia đình. Cái áo màu trắng, chắc chắn không phải của nó vì tôi bận vào ngắn trên đầu gối, hai tay áo bám sát lấy tay mình. Áo của con gái rồi. Về đến nhà cởi ra mới biết áo của người. Tôi mừng run, mất ăn mất ngủ rồi nấn ná không muốn mang trả áo sớm như dự định. Đến khi em người sang đòi áo “để chị đi học” tôi định nói mất rồi. Để mua đền cái khác nghe! Cái áo đó có gì đâu mà theo tôi đi gần hết vòng trái đất sau này dầu rời trường rời lớp rời thành phố chưa lần trở lại. Có gì mà khi “Áo ai cho mượn không đủ che hạt nước trời nên rét lạnh ngày sau.”

    Chiến trận đã xoay chiều. Lệnh đôn quân được thông báo hàng ngày trên đài phát thanh. Tôi gần đi rồi. Đi lính! Lần cuối qua thăm người đứng ở cửa sau hỏi nhỏ.”... Học như rứa mà răng phải đi!” Thì ra người biết hết. Thằng Cu là gián điệp. Học bạ gởi nó ngày nào là bằng chứng. Tự nhiên tôi nghe nao nao trong lòng. Tôi đứng nhìn con bé. Aùnh điện vàng phía sau không soi rõ mặt nó nhưng tôi tìm được đôi mắt sáng, đẹp nhưng buồn. Tôi không trả lời được câu hỏi. Xa xa là cánh đồng cỏ lau tôi từng lăn lộn những ngày ấu thời. Khi đó người còn ở đâu ngoài Huế, chưa thả những giọt nắng vàng nhẹ xuống hồn tôi. “Gọi em là mưa trên đầu ngọn núi. Nước mát lòng khe uống nhé yêu thương. Gọi trên Trường Sơn tên trong trí tưởng. Nay núi mai rừng đi giữ quê hương...”
    Thằng bạn còn ở nhà báo tin người chết! Thư còn nhiều nữa những trách móc thân tình nhưng tôi không can đảm đọc hết. Đôi lần có phép trở lại thành phố cũ, ở tuổi mười chín, tôi thấy mình lạ hẳn với đời sống. Gia đình còn lại của người cũng xuôi về Nam. Mấy đứa trong đám bạn càng ngày càng xa. Tôi ở tác chiến chỉ có một đường về như thơ của người thầy dạy Việt Văn: “Thưa me, thưa me con đã trở về. Nằm trên xe lăn từng vòng xót xa. Thưa me, thưa me con đã về gần. Dầu chẳng còn đôi chân. Thưa me, thưa me con đã về thăm. Xin giữa quê hương một chỗ yên nằm. Xin một bóng cây lên trên phần mộ. Một lần là trăm năm.”* Cũng may không chết.
    Thôi chào xa thành phố thân yêu chào xa nơi người yên nghỉ. Ngày em đi xe tang chạy ngang đường Thống Nhất, chết máy trước cổng trường. Người ta nói em nuối thầy cô bạn cũ. Em đâu biết tôi nuối em những ngày nắng núi mưa rừng. Những tối nhìn xa xa thấy đèn vàng thành phố. Những lần bâng khuâng nghe ai nhắc đến Nam Ô. "Đà Nẵng nhớ về thấp thoáng có người hỏi lần cuối bên hiên. Sao bỏ mà đi, bỏ lớp, bỏ trường, bỏ ngày nắng mới."
    Thôi chào căn nhà có ai tóc ngắn nơi tôi một lần rơi trái ấu thơ.

    [/FONT]
     
    KDC likes this.
  20. Ajinomot

    Ajinomot Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Rượu, Tuyết và Hoa[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trương Thị Kim Chi[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Người đàn bà khuyết tật bán vé số, chạy chầm chậm chiếc Chaly được gắn thêm hai bánh phía sau, đội nón bảo hiểm trên đoạn đường không bắt buộc.

    Hình như có cái gì đó cần phải suy nghĩ cho trọn vẹn kỹ càng. Tôi leo xe lên lề đường, quay lại nhìn. Bắt gặp ánh mắt của tôi, bà ta tấp xe vào lề, mời mua vé số. Tôi lục tìm tất cả những đồng bạc lẻ. Xác suất rất nhỏ cho niềm vui rất lớn, thậm chí có thể đổi đời. Xác suất rất lớn cho nỗi thất vọng rất nhỏ - nhỏ đến độ thường bị lãng quên đâu đó ở ngăn ngoài chiếc ví, trong túi quần... Nụ cười người đàn bà lấp lánh hạnh phúc: "Chúc cô may mắn!".

    Hê hê! Vậy thì cần xét lại hai mươi viên seduxen mà tôi phải mua rải rác ở các tiệm thuốc tây suốt cả buổi chiều. Cần xét lại nỗi đau bị xúc phạm, bị tổn thương, bị phản bội đang cháy lòng bỏng dạ.

    Đằng kia là quán karaoke. Hộp đèn quảng cáo rực rỡ, liên tục nhấp nháy mời mọc. Tôi tiến đến. Anh chàng phục vụ mặc áo trắng thắt cà vạt đỏ đưa tôi vào thang máy. Ít thấy phụ nữ đến đây một mình như cô. Vậy à? Cô vào phòng hát cho nhau nghe nhé! Cũng được! Căn phòng mở ra, tôi chóng mặt bởi những luồng đèn nhiều màu sắc quay tít mù, điếc tai bởi âm thanh hết cỡ. Quanh tôi, hầu như ai cũng có đôi có cặp, có bạn có bè. Trên sân khấu, một nường tóc vàng hoe lắc lư, giậm chân lia lịa như cố đuổi kịp điệu nhạc giật gân, coi giống đang bị kiến cắn. Màn hình sau lưng nường ta như cũng nhún nhảy theo. Xin hỏi cô dùng gì ạ? Rượu! Sâm-banh ạ? Ừ, đem nguyên chai ra đây! Cô có muốn rượu phun thật cao? Ừ! Chừa lại hai ly, tôi và anh! Chai rượu được lắc mạnh. Tiếng nổ giòn tan. Tiếng vỗ tay. Tiếng huýt sáo... Những tia rượu loang loáng sắc màu. Mùi thơm nồng nàn, ngọt ngào quyến rũ. Xin hỏi, cô hát bài gì ạ? Một mình!

    Phía trái tôi, cặp tình nhân chụm đầu thầm thì. Bên phải, hai thằng con trai được hai cô tiếp viên váy ngắn đến nỗi không còn có thể ngắn hơn nữa, nhiệt tình hầu hạ... Trong bao nhiêu mái đầu đang kề nhau âu yếm kia, liệu có con người ấy không? Con người mà tôi từng hết lòng tin cậy, ngưỡng mộ và yêu thương. Vắt vẻo trên hàng ghế cao nghệu bên quầy rượu cạnh sân khấu, mấy tên choai choai vỗ tay tán thưởng cô gái vừa hát xong. Họ vui hết mình. Họ đang tận hưởng cuộc sống hết mình. Tôi thò tay vào túi, sờ gói seduxen. Hê hê... Nhắp ngụm rượu, tôi cảm thấy rất ngon dù hiếm khi uống rượu. Chao nghiêng và nóng bừng. Hừ, anh không xứng đáng để tôi phải bận lòng. Những viên thuốc ngủ này tôi sẽ... sẽ nghiền nát ra... nghiền nát ra. Rồi đem phơi sương ba đêm, phơi nắng bảy ngày. Rồi sao vàng. Rồi hạ thổ. Rồi trộn đều với mật ong. Rồi dụ lũ ruồi say ngủ chơi. Hê hê...

    Trong đời, ai lại không ít nhất một lần đắng cay đến phát rồ phát dại. Cám ơn người đàn bà khuyết tật trên chiếc Chaly an toàn, đội mũ bảo hiểm an toàn. Tiếng MC õng ẹo làm tôi ngượng quá xá: "Xin giới thiệu lời thủ thỉ tâm tình của một cô gái đang cô đơn. Giọng ca chắc chắn sẽ lay động tận sâu thẳm cõi lòng chúng ta"... Tôi bước lên sân khấu. Màn hình trên bức tường trước mặt hiện lên lời ca: Gió nhớ gì ngẩn ngơ ngoài hiên. Mưa nhớ gì thì thầm ngoài hiên... Ngoái lại, màn hình sau lưng in rõ hình ảnh một mình tôi. Trời ơi! Sao mà thảm thương tội nghiệp thế này. Không! Không đời nào! Chẳng hợp với tôi tí nào. Thèm vào. "Xin lỗi các bạn, hình như có sự nhầm lẫn". Tôi quay sang anh chàng điều khiển dàn máy. Điệu cha cha cha trỗi lên rộn ràng. Phấn chấn, tôi khoa tay múa chân. Vui lên đi ta với nhau! Cho trọn vẹn ái ân. Ta bên nhau trong nắng ban mai. Cho nhau nụ hồng ngây ngất!... Khán giả sôi nổi đồng điệu. Tiếng cụng ly lanh canh hào hứng. Mọi người gào lên chúc mừng nhau rôm rả: "Vui lên đi!". Phấn khích, thiên hạ kéo nhau ra sàn nhảy, say sưa cuồng nhiệt. Phấn khích, tôi cũng quay cuồng. Lạy trời! Nếu sống thêm vài trăm năm nữa chắc gì tôi có được giây phút hứng thú kinh khủng như thế này. "Vui lên đi...".

    Chếnh choáng, tôi bước ra ngoài. Chà, vừa rồi chắc mình giống bị ong chích! Điên thật! Thôi kệ, nhằm nhò gì. Tôi thấm thía lời một triết gia, điều bất hạnh duy nhất của bạn chính là ở chỗ bạn cho rằng mình là người bất hạnh. Đường phố ken dày người. Len vào dòng đời đang tuôn chảy hối hả rộn ràng, giọng tôi đã khàn đặc: "Vui lên đi...".

    Em gái út tôi mỏng manh và xanh úa như chiếc lá bị rợp nắng, mười bảy tuổi vẫn mông teo ngực lép. Đẻ mót mà! (Mẹ tôi bảo vậy). Sợ nó không đủ sức khỏe để vượt qua những kỳ thi gian nan trước mặt, mẹ tôi dẫn nó đi khám bệnh khắp nơi. Kết luận cuối cùng là nó chẳng mắc bệnh gì cả, chỉ tại học nhiều, ít hoạt động nên ăn không ngon ngủ không khỏe. Theo lời khuyên của thầy thuốc, nó nên đi bơi, tập thể dục... Và tôi là một trong ba cô chị được mẹ chọn lựa giao phó sứ mệnh lớn lao: Lo cho con nhỏ đẻ mót!

    Cũng hay! Bởi từ sau vụ thất tình, tôi cứ từ từ lên ký. Buồn cười thật, người ta bị phản bội thì vóc hạc xương mai. Còn tôi? Dại gì! Ăn sướng miệng cho hết buồn. Ngủ no giấc cho hết buồn. Đi chơi xả láng cho hết buồn. Để rồi hễ rảnh tôi bước lên bàn cân. Cân tới lui mấy lần. Bước thật nhẹ. Cố nghiêng người về phía trái. Rồi không tin ở mắt mình, không tin sự chính xác của cái cân, chỉnh nút vặn mấy lần. Buồn năm phút. Vậy thì đưa Út Mót đi bơi là một công đôi việc.

    Ngày đầu tiên, nếu không có Mót, chắc tôi không dám thay đồ bơi. Người đâu mà lắm, đa số lại là nam giới. Bộ đồ bơi kín đáo nhất trên đời nhưng tôi vẫn cảm thấy trống trải. Quàng kín người trong chiếc khăn tắm rộng, tôi líu ríu đi sát cạnh Mót như để được chở che. Hai chị em ghé ngồi chiếc ghế đá cạnh cầu thang xuống hồ bơi, đội mũ bơi cho nhau, cũng là lấy tinh thần trước khi bỏ chiếc khăn ra, tênh hênh. Vừa ngập người trong nước, tôi thở phào nhẹ nhõm.

    Nước ngang bụng. Hai chị em bíu chặt tay vào gờ. Tôi nhắc em bài tập đạp chân, thở nước. Nhìn bọn nhóc bơi lặn như đàn nòng nọc, nhẹ nhàng và thành thạo, phát ham. Cũng như tôi, cánh phụ nữ mới tập bơi túm tụm chỗ nước cạn. Tôi cúi mặt tập đạp, không dám nhìn đám đàn ông chỉ phong phanh cái quần bơi bé xíu, ngượng mắt chết được. Mót nhanh nhảu làm quen với thằng bé độ mười hai mười ba tuổi, đen nhẻm, bơi giỏi như rái cá: " Tập chị bơi với!". Thằng bé đạp chân vào thành hồ, lao vút ra xa, để lại tràng cười: "Đợi em tí". Nhoáng cái, nó mất hút giữa những cái đầu ướt nhẹp, những mũ bơi nhiều màu sắc. Cũng nhoáng cái, nó từ dưới nước chui lên, vừa vuốt nước trên mặt, vừa hỏi: "Mấy chị xuống nước lần đầu hả?". Giọng Mót ngọt lịm: "Ừ, tập cho mấy chị đi!". "Dễ ợt hà, mấy chị cứ xuống nước chừng tuần lễ, vung tay vung chân là tự nhiên biết bơi!". Rồi nó lặn mất tiêu. Một cô gái đang ra sức quẫy tay quẫy chân lung tung, được chừng chục mét, bám gờ đứng dậy, thở hào hển. Tôi nhìn cô ta một cách thòm thèm.

    Quả như thằng bé nói, sau tuần lễ, với tất cả các buổi chiều từ bốn giờ rưỡi đến bảy giờ lặn hụp đạp quẫy, vài lần uống no nê nước hồ bơi mà không biết nếu đem xét nghiệm có những chất gì trong đó, rồi tôi cũng trườn người được trên nước, dồn tất cả sức lực quẫy đạp lũm chũm tung tóe. Tưởng đã tới được bên kia chiều ngang của hồ. Tối mặt tối mũi, tôi chụp thành gờ đứng lên. Mới chỉ vài sải tay, nhưng tôi sung sướng muốn reo to. Coi như tôi đã biết bơi. Bước cơ bản và khó khăn nhất tôi đã vượt qua. Gã đàn ông đứng cạnh có nụ cười rất hóm: "Chúc mừng cô!". "Cám ơn ông!". Tối đó chị em tôi là những người sau cùng lên bờ khi người ta nhắc khéo bằng cách lấy sào vớt mấy chiếc lá.

    Tắm lại nước sạch, nhẹ thênh trong váy lụa, tôi sung sướng thưởng thức cuộc sống diệu kỳ. Hăm sáu tuổi, không đẹp không xấu, hai bằng đại học, một việc làm khối kẻ mơ ước, một mối tình đã chết. Và bây giờ điều đáng nói là tôi đã biết bơi! "Chúng mình chia tay em nhé! Xin lỗi em...". Cóc cần anh xin lỗi. Đồ tồi! Nỗi ám ảnh đã tựa khói sương.

    Từ đầu này tới đầu kia và ngược lại, hai mươi lăm mét chiều ngang, một mét độ sâu. Cứ vậy tôi bơi với một kiểu duy nhất: bơi ếch. Theo sách vở, tôi hít thở như vậy là chưa đúng quy cách. Mặc kệ. Hãy dồn hết sức chân đạp, tay khỏa nước, bỏ lại sau lưng nỗi ê chề chua xót và vươn tới niềm vui nhẹ trôi của thân thể. "...Bởi anh nghĩ chúng mình sẽ không hạnh phúc, vì...". Vì cái gì mặc xác anh! Đồ phù phiếm! Cảm xúc tinh khôi choáng ngợp ban đầu đã khiến tôi lầm lẫn tệ hại về anh.

    Ba hôm nay, một cô gái thân hình đẹp như người mẫu, bộ ngực bốc lửa, bơi giỏi kinh khủng, trông cứ như bay lướt trên mặt nước với đôi chân vịt màu đen. Cô ta kiêu hãnh biểu diễn đủ kiểu: bơi bướm, bơi sải, bơi ếch... Giờ cô tiên cá kia đang tựa lưng vào thành hồ ngoài xa tít, thỉnh thoảng lại hụp trồi thở nước. Có lẽ mọi đôi mắt đàn ông đều dồn vào cô ta. Tôi cũng chăm chú nhìn cô gái, ngưỡng mộ, ước ao và đôi chút ganh tị. Gã đàn ông - vẫn là gã - hình như đọc thấu khao khát của tôi: "Cố gắng ít hôm cô sẽ ra được ngoài đó. Thoáng đãng và mênh mông. Tuyệt lắm!". Tôi buột miệng cám ơn nhưng gã thoắt biến mất. Mót bữa nay được cậu bạn nhỏ kèm sát cạnh, đã ra được tới hai phần ba chiều dài hồ. Thấy phát ghiền.

    Chừng vài tháng sau, men sát bờ hồ, luôn trong tư thế sẵn sàng bám vào gờ, tôi ra được nửa hồ. Dừng lại nghỉ, tôi nhìn xuống đáy, khoan khoái hài lòng khi nhận ra cuộc sống quá đỗi thú vị. Chợt cảm giác lạnh toát, rợn ngợp, sợ hãi xâm chiếm tôi. Nước sâu thăm thẳm, trong vắt, thấy rõ từng viên gạch men lát nền. Chân tôi hụt hẫng. Đang loay hoay tính quay vào thì gã đàn ông - vẫn là gã: "Cô gái ơi! Bơi ra đi, có tôi bên cạnh, đừng sợ!". Tôi tần ngần. Gã cười: "Dũng cảm lên! Cô sẽ có được niềm vui lớn. Niềm vui chiến thắng". "Chiến thắng chiều dài bốn mươi mét, độ sâu hai mét rưỡi?". "Không! Chiến thắng bản thân mình!". Và vẫn nụ cười hóm: "Thật đấy! Cố lên! Tôi chắc chắn cô sẽ làm được!". Ánh mắt tin cậy của gã lan tỏa sang tôi. Tôi mím môi gật đầu, tiếp tục cuộc hành trình tưởng chừng xa lơ xa lắc. Yên tâm bởi có gã kèm sát: "Cố lên, cố lên!". Càng ra xa, thân thể càng nhẹ hơn. Và cuối cùng tôi đã tới đích. Sung sướng với cái bất ngờ tưởng chừng trong mơ. Bám chặt hai tay vào gờ, tôi ngoái đầu nhìn vào trong bờ. Ủa, thì ra bốn mươi mét đâu có xa ngút. Giọng gã bên tai: "Xin chúc mừng!". Tôi xúc động: "Cám ơn ông!". "Nghỉ một lát tôi đưa cô vào. Cô nhớ đừng nhô mông lên cao quá. Không đẹp". Tôi đỏ bừng mặt. Sự thẳng thắn bộc trực dẫu chân tình làm tôi thoáng ngượng. "Cô bơi không được bài bản lắm. Chắc cô tự tập? Nào, chúng ta vào thôi!". Tôi ngoan ngoãn bơi sát tường hồ, có gã bên cạnh, phía ngoài. Về được giữa đường, tôi đuối sức. "Cố lên, hễ vượt qua được lúc gay go này, cô sẽ vượt qua tất cả. Cô có thể bơi mãi... bơi mãi... đến tận ngoài khơi xa cơ đấy!". Tôi cố, cố, cố... Và sức mạnh không biết từ đâu dần dần len vào cơ bắp, tôi lấy lại phong độ lúc đầu. "Đó, cô thấy chưa, tôi biết mà. Hồi mới tập bơi, tôi cũng đã từng như cô bây giờ". Vào được điểm xuất phát, tôi đứng tựa lưng vào tường, thở đều. Gã lại lướt đi, những sải tay khỏe, dài và rộng, chân quẫy nhẹ, mái đầu nghiêng sang trái sang phải đều đặn. Tất cả đều nhịp nhàng, nhuần nhuyễn. Chàng cá kình.

    Mót lướt tới: "Em biết rồi! Đừng giấu em à nghen!". "Biết gì hả Mót?". "Hai người tình trong như đã rồi phải hông?". "Bậy nà, chị chưa biết ổng là ai". Ừ, tôi chưa biết gã là ai, bởi sau những lần chạm mặt dưới hồ, gã biến mất đâu đó giữa bao nhiêu người, rồi gã lên trước hay sau, tôi cũng không hay. "Xì, bày đặt giấu em hoài". Mót lướt đi. Gã là ai, tôi không tiện hỏi. Chỉ nhớ đó là khuôn mặt chữ điền ngăm ngăm đen, rắn rỏi nghị lực, cùng nụ cười hóm như khá hiểu sự đời, thường nở trên môi.

    Tháng mười hai. Sáng sớm và chiều muộn trời se lạnh. Khuôn viên hồ bơi vẫn rộn rịp tưng bừng như ngày hội. Bọn trẻ con bên mấy cái hồ nhỏ reo vui í ới. Chị em tôi vẫn đều đặn đến hồ bơi. Mới xuống nước có nghe lạnh nhưng chỉ cần tung tăng vài vòng cái lạnh đã thành mát. Mọi nhọc nhằn mỏi mệt muộn phiền trong ngày như chuồi đi sau từng vòng tay khỏa nước thỏa thuê. Dạo sau này tôi dạn dĩ, đã dám nhìn những thân hình cơ bắp khắp hồ bơi. Gã đâu rồi? Cả tuần qua sao không thấy?

    Xưa nay, tôi vẫn tin những gì đến và đi trong cuộc đời mình đều là may mắn. Hồi nhỏ, mỗi lần cùng bạn bè: "U ập! Tay trắng tay đen tay Chà Và đen thui tay Việt Nam trắng bóc" thì y như rằng giữa những bàn tay ngửa chỉ mỗi tay tôi úp và ngược lại. Còn "tù tì" thì hễ đối thủ ra cái bao, tôi ra cái kéo, đối thủ cái búa, tôi lại cái bao. Cứ như có sự sắp đặt. Cuộc gặp gỡ thoáng qua trên chuyến bay, cú điện thoại nhầm, mẩu tin nhắn đi lạc... luôn gợi tôi mơ mộng... Có phải nhờ vậy mà hôm sinh nhật con bạn, chàng trai ngồi đối diện bảo tôi có niềm tin. Tôi hỏi vì sao? Chàng trai nói tại nét mặt tôi sáng tươi hớn hở. Phải! Cuộc sống tôi lúc nào cũng có ước vọng để đợi chờ. Và nếu ước vọng đó không thành sự thật, tôi không buồn mà lại nhủ rằng biết đâu lại là may mắn. Rồi nhanh chóng quên đi và chờ đợi. Cứ thế cứ thế... Cho nên nghiền ngẫm lại cuộc tình, tôi mím môi tin rằng trong cuộc "tù tì" này, hắn chìa cái kéo, nhưng tôi đã tung cái búa! Cứ thế cứ thế... Cho nên cả tuần nay, sự mất dạng của gã đàn ông từng nhen nhóm trong tôi nhiều mộng ước chẳng làm tôi phải thở dài. Mót nhoài đến: "Về đi Tư ơi! Em lạnh!".

    Ngồi sau lưng tôi, Mót luôn miệng hát, hết bài này đến bài khác. Cái tật nó vậy, miệng không để kéo da non. Tôi nhắc em đeo khẩu trang vào kẻo nhai bụi khỏi ăn cơm luôn. "Tư ơi, ghé ăn chè đi! Có quán mới mở kìa!". Tôi tạt vào. Kiểu quán vườn, nhỏ và thanh lịch. Khách đông nghịt. Mót làm một hơi ba chén chè bưởi, xuýt xoa nước cốt dừa ngon quá, không đâu bằng. Tôi nhón từng muỗng nhỏ, chầm chậm để chế ngự bớt cái khoái khẩu sau hai tiếng đồng hồ hoạt động hết công suất. "Ừ, ngon thiệt. Để chị vô mua cho má". Người đàn ông đứng cạnh quầy ngẩng lên. Lạy trời! Là gã. Phải, chính gã. Ánh mắt chạm nhau. "Tôi có nhầm không nhỉ? Cô gái ở hồ bơi đây phải không? Cô gái chiến thắng?". Tôi mỉm cười: "Vâng, nói như ông thì tôi đã chiến thắng được chính mình". "Cuộc chiến gian nan nhất". "Cám ơn ông!". "Cả tuần nay tôi bận quá, không đến hồ bơi. Thế bữa nay cô bơi được mấy vòng rồi?". "Ông đoán thử xem!". "Ít nhất là bốn vòng". "Ông nói như thần". "Nhà tôi bên kia đường kìa. Lúc nào tiện, mong cô ghé chơi. Tôi cũng đợi lời mời của cô!".

    Được hai vòng hồ, tôi dừng lại nghỉ. Sảng khoái không sao tả hết khi ta thỏa sức bơi. Hê hê. Nghĩa lý gì cái mối tình với kẻ tầm thường. Bạn bè thì thầm, hắn đang bám đuôi tiểu thư của ngài giám đốc công ty hắn. Một cái đầu nhô lên cạnh tôi: "Hai vòng vừa rồi không tính nhé! Bắt đầu lại, bốn vòng liên tục xem nào!". Là gã. Ối dào, chuyện nhỏ. Tôi dừng lại nghỉ không phải vì đuối sức. Thích thì nghỉ. Vậy thôi. Nhưng ông ta là gì của mình mà bày đặt nói kiểu kẻ cả? Cái kiểu tôi ghét cay ghét đắng. Tôi mím môi đứng im. Gã vẫn cười hóm: "Xin lỗi, tôi không có ý ra lệnh cho cô. Nhưng lúc nào người ta cũng uốn lưỡi đủ bảy lần trước khi nói thì cuộc đời hơi bị nặng nề đấy! Tuy nhiên tôi rất trân trọng sự phản kháng cần thiết". Anh ta có khả năng siêu nhiên chăng? Tôi kinh ngạc, sấp người trên nước, co chân đạp mạnh vào tường hồ, lướt ra xa, nhẹ thênh. Tôi khỏa tay, co duỗi chân, trồi hụp nhịp nhàng, cố không nhô mông lên cao. Mót cũng nhận xét giống gã: "Chỉ cần coi cái mông nào nhô cao nhất trong hồ thì biết đó là chị. Mắc cười lắm kìa". Bữa nay tôi không thèm men theo sát bờ hồ nữa mà ngang nhiên bơi giữa lòng hồ ra dáng ta đây. Khá nhẹ nhàng uyển chuyển. Gã vượt qua tôi bằng những sải tay khỏe khoắn. Nổi hứng, tôi thử bắt chước sải theo nhưng đành chịu thua. Ra tới bờ ngoài, gã tựa lưng vào thành hồ, ngước mặt lơ đãng nhìn trời mây. Gần đến chỗ gã, tôi tính lượn vòng trở vào. "Cô gái ơi, dừng lại chút để nghe ta nhẹ như mây nhờ ông Archimède". Giọng gã mềm như nhung. Tôi đến gần gã. "Cô tiến bộ vượt bậc. Không thể ngờ được". Tôi e thẹn: "Có công lao của ông...". "Không, tôi chưa làm gì được cho cô hết!". Tôi thành thực: "Ông đã giúp tôi khám phá bản thân mình. Xưa giờ tôi chỉ biết tin vào sự may mắn, chứ chưa ý thức mình có thể vượt qua bản thân. Với tôi, điều này rất quan trọng...". "Nếu vậy tôi phải cám ơn cô. Cô đã cho tôi hạnh phúc khi thấy mình làm được chút gì cho ai đó. Vậy là huề nhé!". Cả hai cùng cười. Tiếng cười lăn dài theo từng gợn sóng nhỏ trên mặt hồ lung linh vài sợi nắng. "Chúng ta bơi đi. Đứng yên một chỗ lâu sẽ bị lạnh". Chúng tôi bơi song song nhau, dọc chu vi hồ. Dòng sông cuộc đời đây chăng? Gã cũng bơi ếch, có lẽ cố tình đạp chân thật nhẹ để không vượt qua tôi.

    ° ° °
    Sáng chủ nhật, tôi chầm chậm đi qua đó. Giả bộ như vô tình, tôi liếc nhìn vào và lặng người. Gã cùng một phụ nữ đang chăm sóc giàn phong lan trước hiên nhà. Giả bộ bị tắt máy xe, tôi quan sát kỹ hơn. Thôi thì, mộng ước trở thành mộng ảo cũng là lẽ thường. Biết đâu lại là may mắn! Có sao đâu. Chuyện nhỏ nhằm nhò gì. Tôi tự an ủi và tin rằng rồi cuộc đời sẽ đem đến một cuộc gặp gỡ khác với kết cuộc có hậu. Tôi rồ ga cho xe chạy thẳng.

    "Cô gái ơi! Bộ đang rượt bắt cướp hả?". Tôi lạ lùng cho xe chậm lại. "Cô gái ơi, ghé nhà tôi chút đi". Giọng gã hiền dịu tha thiết, ánh mắt khẩn khoản: "Ước gì em gái tôi được làm bạn với cô!".

    Phòng khách bài trí đơn sơ nhưng khá tinh tế. Những ca khúc mùa xuân rộn ràng niềm vui sống: "Phải chăng nụ hoa mùa xuân đang hé nở, phải chăng ngày xuân đầu tiên đang gõ cửa...". Gã vào trong lấy nước. Tôi đến bên ô cửa sổ mở ra khu vườn nhỏ yên tĩnh, trồng nhiều hoa kiểng. Mấy vạt nắng ban mai hồng tươi mềm óng ả trên thảm cỏ xanh mượt. Tất cả gợi cảm xúc trong lành, êm đềm dễ chịu.

    Kìa bức tranh. Bức tranh câm lặng đầy bí ẩn. Tim tôi như thắt lại. Những cành cây khẳng khiu trụi lá dạt về một hướng. Nhưng có chú chim nhỏ xíu đậu ở cành dưới cùng, rất cô đơn, đang quay đầu ngược lại, dõi trông. Bên dưới có mấy câu thơ, kiểu thư pháp: "Chim kankodor! Nỗi buồn sâu thẳm. Đọng vào tôi đi" (Basho). "Cô có nhận xét gì không?". "Không! Thú thật tôi mù tịt về hội họa, thơ ca. Có điều, bức tranh gợi tôi cảm giác buồn, buồn lắm, đến muốn khóc mà không lý giải được". "Cô nhìn kỹ lại xem! Có phải chú chim ngoái lại kiếm tìm và hy vọng? Bất chấp mọi nghịch cảnh. Vì vậy tuy rất buồn nhưng không hề tuyệt vọng!". Bắt gặp cái nhìn điềm tĩnh cương nghị của gã, tôi mỉm cười đồng cảm: "Vâng, một nỗi buồn đẹp!".

    Tôi thẫn thờ trong dòng hoài niệm của gã. Năm bảy mươi, cha mẹ gã sang Nhật du học. Rồi định cư luôn. Anh em gã được sinh ra, lớn lên nơi xứ người. Và cách đây sáu năm, cha mẹ cùng người vợ mới cưới của gã đã ra đi vĩnh viễn trong một tai nạn máy bay. Đọc nhật ký của mẹ, gã quyết định đưa ba bình tro về quê nhà. Giọng gã trầm xuống, lắng sâu: "Quê cha đất mẹ yên bình đã níu giữ chân tôi. Giờ tôi chỉ còn đứa em gái mù lòa...". Gã nói về em mình bằng giọng thật ấm và nâng niu, như dồn vào đấy tất cả yêu thương. Lòng tôi xao xuyến nỗi xúc động. "Nó rất thích chè đậu nước cốt dừa. Ngay từ nhỏ, chúng tôi đã được mẹ cho ăn món này". Chợt gã chuyển đề tài: "Chiều mai cô muốn tập lặn không? Chuồi dưới đáy nước tuyệt lắm. Rồi cô lại có niềm vui chiến thắng. Hình như cuộc sống sẽ giảm đi ít nhiều ý nghĩa nếu chúng ta không còn những khó khăn, để mỗi lần vượt qua, lại thấy mình lớn hơn một chút... Tôi thực sự bị cô cuốn hút từ lần gặp đầu tiên khi cô mím môi, đạp nước bắn đầy người tôi... Khi cô đứng lên, vuốt nước trên mặt, để lộ đôi mắt sáng rực...". Tôi đỏ mặt, ngồi im. Ai đó đang thì thầm: "Cùng đón chúa xuân đang giáng xuống trần. Thế gian lắng nghe tình xuân nồng... Nào ai hững hờ xuân vẫn ngóng chờ…". Gã đặt tay lên bàn tay tôi. Bàn tay to rộng ấm áp. Giọng gã dịu dàng: "Tuần tới tôi sẽ sang Nhật có chút việc. Cô có thích chén rượu sakê đêm giao thừa?". Tôi ngoan ngoãn gật đầu, mỉm cười: "Và nắm tuyết nữa". Bàn tay ấy siết chặt tay tôi. Trong khoảnh khắc, tôi cảm nhận được cái bền vững diệu kỳ trong sự hòa hợp giữa nồng say và dịu mát, mạnh mẽ và mềm mại: "Cùng nụ hoa đào ép giữa cánh thiệp xuân...".
    [/FONT]
     
    KDC likes this.