TP....38-51-61...768--968....LA...68--77 AB CON DÊ CON MÈO...XC 757...797....CHÚC MỌI NGƯỜI PHÁT LỘC.
Triết lý của Lão Tử Tôi cam chịu mọi sự nhục trong thiên hạ - Lão Tử Lão Tử tức Thái Thượng Lão Quân là một nhà tư tưởng vĩ đại của Trung Hoa cổ đại, là người sáng lập trường phái Đạo gia (đạo Lão). Ông tên thật là Lý Nhĩ, tên thường gọi là lão Đam, người làng Khúc Nhân, hương Lệ, nước Sở. Ông làm chức quan giữ sách nhà Chu, học rộng biết nhiều, sau về quê ở ẩn. Tương truyền, trước khi về ở ẩn đến cửa quan, viên quan coi cửa là Doãn Hỉ bảo:"Ông sắp đi ở ẩn, rán vì tôi mà viết sách để lại". Thế là Lão Tử viết một cuốn sách chỉ gồm khoảng năm ngàn chữ bàn về "Đạo" và "Đức" (tức Đạo Đức Kinh). Viết xong rồi bỏ đi, về sau không ai còn nghe đến, không biết sống chết ra sao. Tương truyền, Khổng Tử qua Chu thăm Lão Tử. Lão Tử cởi trâu ra tận đầu làng đón Khổng Tử. Hai người đàm đạo với nhau trong ba ngày về Đạo. Đến khi chia tay, Lão Tử bảo với Khổng Tử rằng: "Những người ông nói đó, thịt xương đều nát cả rồi, chỉ còn lại lời của họ mà thôi. Tôi nghe nói người giàu sang tiễn nhau bằng vàng bạc, người nhân tiễn nhau bằng lời nói. Tôi không phải là người giàu sang, tạm coi mình là người nhân mà tiễn ông bằng lời này: Người buôn giỏi thì giấu kĩ vật quý, xem ngoài như không có gì; người đức cao thì tướng mạo như ngu độn. Ông nên bỏ cái khí kiêu căng, cái lòng đa dục, cái vẻ hăm hở cùng cái chí quá hăng của ông đi, những cái đó không có ích gì cho ông đâu. Tôi chỉ khuyên ông có bấy nhiêu thôi" Khổng Tử về đến nhà suốt ba ngày không ra khỏi cửa, bảo với môn sinh rằng: "Loài chim, ta biết nó bay được; loài cá ta biết nó bơi được; loài thú ta biết nó chạy được. Chạy thì ta dùng lưới để bẫy, bơi thì dùng câu để bắt, bay thì dùng tên để bắn. Còn loài rồng cưỡi gió cưỡi mây mà bay lên trời thì ta không sao biết được. Nay ta gặp ông Lão Tử; ông là con rồng chăng ?" Thực là ngược đời, cái triết học "ngược ngạo" của Lão tử lại sản sinh ra cái lý tưởng cao thượng nhất về hòa bình, khoan dung, giản phác và tri túc. Giáo huấn của ông gồm bốn điểm: trí tuệ nên như ngu độn, đời sống nên ẩn dật, xử thế nên nhu nhược và tánh tình nên giản phác. Ngay đến nghệ thuật Trung Hoa, từ ý thơ, ảo tưởng đến những lời tán tụng đời sống bình dị của tiều phu, ngư phủ cũng không thể thoát ly triết học đó mà tồn tại. Nguồn gốc của chủ nghĩa hòa bình của Trung Hoa là do cái quan niệm chịu nhận sự thất bại tạm thời để chờ cơ hội thuận tiện, và do lòng tin rằng vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo cái luật vận hành phản phục; do đó không một kẻ nào vĩnh viễn "u mê" bao giờ. Đến đời Tần-Hán, các đạo sĩ thuộc phái Đạo gia thờ Lão Tử nhưng không còn quan tâm nghiên cứu triết học Lão-Trang mà chỉ toàn lo bàn chuyện tu tiên, luyện thuốc trường sinh bất tử. Phái Đạo gia suy dần, tuy nhiên những tư tưởng của Lão Tử thì đã trở nên bất tử với thời gian. Theo các nhà nghiên cứu, tư tưởng của Lão Tử không chỉ là một triết học nhân sinh mà còn là vũ trụ quan tiên báo khoa học hiện đại. *** Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là đạo. Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến nữa. (Ta gọi tiếng "trâu" để chỉ con trâu là do quy ước từ xưa đến nay, tiếng "trâu" không phải là tên bất biến. Nếu từ xưa ta quy ước gọi tiếng "bò" để chỉ con trâu thì ta sẽ gọi con trâu là "bò". Đạo thì không như vậy. Đạo bất biến nên ta không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể dùng trực giác để hiểu). Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự chuyển động, bình thản vô tâm mà khéo sắp đặt mọi việc. Đạo trời không thiên vị ai, luôn giúp đỡ cho người lương thiện. Lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng khó lọt (Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất.) Không tên là gốc trời đất, có tên là mẹ vạn vật. Đạo trời ví như cánh cửa khép mở, vạn vật từ đó đi ra rồi lại trở về đó. Đạo có tính chất trừu tượng, nó không có hình thù cụ thể, không thể nắm rõ, không sáng ở nơi rực rỡ, không mờ ở nơi tối tăm và cũng không có tiếng động. Đạo vĩnh viễn không có tên gọi. Vạn vật chuyển động theo một vòng tròn khép kín. Tất cả bắt đầu từ "có", có lại bắt đầu từ "không". Lời nói hợp đạo nghe như ngược đời. Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu thảo, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung. Đạo ức chế vật cao, nâng đỡ vật thấp. Đạo trời lấy chỗ thừa mà đắp vào chỗ thiếu hụt. Đạo người thì lấy của người nghèo mà thêm cho người giàu, đây chính là nguồn gốc của sự hỗn loạn. Người khôn ngoan chỉ muốn một điều là không muốn gì cả. Trời có đạo mà xanh, đất có đạo mà yên, thần có đạo mà linh, biển nhờ có đạo mà đầy, vạn vật có đạo mà thành, đế vương có đạo mà được thiên hạ. Lời nói chân thật thì không hoa mỹ, lời nói hoa mĩ thì không chân thật. Người thiện thì không mắc lỗi nên không cần phải biện bạch, người nào phải biện bạch cho mình là người "không thiện". Người biết thì không nói, người nói là người không biết [tri bất ngôn, ngôn bất tri]. Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng lại. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô cứng. Cho nên cứng rắn, cáu giận là biểu hiện của chết, mềm yếu, khiêm nhường là dấu hiệu của sống. Binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì lại bị chặt. Cứng mạnh thì phải ở dưới, mềm yếu lại được ở trên. Răng cứng thì chóng gãy, lưỡi mềm thì bền lâu - Lão Tử Mạnh về dám làm [can đảm, cương cường] thì chết, mạnh về không dám làm [thận trọng, nhu nhược] thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà một cái thì được lợi, một cái lại bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái quả cảm, cương cường ? Danh dự với sinh mệnh, cái nào mới thật sự quý ? Người khôn ngoan không bao giờ vì trọng cái danh hão mà xem nhẹ tính mạng mình. Lời hứa dễ dàng thì khó tin, người nào cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên người hiểu đạo coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặp cái gì khó. "Không" có nghĩa là "không có gì" nhưng phải "có cái gì" thì mới có cái "không có". Trong tự nhiên, ngay cả những việc khó khăn nhất cũng có thể thực hiện theo cách dễ dàng, việc lớn thành tựu từ những hành động nhỏ hơn. Người khôn ngoan đạt những thành tựu vĩ đại là nhờ biết chia nhỏ hành động của mình. Cái gì ở yên thì dễ nắm, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán. Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa manh nha, trị loạn từ khi chưa thành hình. Cây lớn sinh ra từ một cái mầm nhỏ; tháp cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân. Thường gần tới lúc thành công thì lại dễ thất bại, vì không cẩn thận như lúc ban đầu, dè sau như trước thì không hỏng việc. Người hiểu đạo trị thiên hạ theo chính sách "vô vi" (taking no action), luôn giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như cái lớn, cái ít như nhiều, lấy đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ [vì việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn khởi từ nhỏ]. Cho nên người đắc đạo trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn. Người đắc đạo làm việc mà không tư lợi. Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh thần bất nhân, coi trăm họ như chó rơm [Luật thiên nhiên không có tình thương của con người, cứ thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt, mùa đông điêu tàn...]. Khoảng giữa trời đất như cái ống bễ lò rèn; hư không mà không kiệt, càng chuyển động hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự yên tĩnh. Người giản dị nhất thì không phải là người giản dị. Người khiêm tốn nhất thì không phải là người khiêm tốn - Lão Tử Muốn cho vật gì thu rút lại thì tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. Hiểu như vậy là sâu kín mà sáng suốt. Vì nhu nhược thắng cương cường. Người đánh xe giỏi không xông bừa tới trước. Người chiến đấu giỏi không giận dữ, khéo thắng địch là không tranh với địch, khéo dùng người là hạ mình ở dưới người. Đó là cái đức của sự không tranh, đó là cái khéo của sự dùng người, đó là hợp với chỗ cùng cực của Đạo Trời. Ngũ sắc làm người ta mờ mắt; ngũ âm làm người ta ù tai; ngũ vị làm người ta tê lưỡi, hưởng thụ làm cho người ta mê muội, vàng bạc làm cho hành vi người ta xấu xa. Cho nên bậc đắc đạo cầu no bụng mà không cầu vui mắt, bỏ cái xa xỉ, đa dục mà chọn cái chất phác, vô dục. Bậc đắc đạo bận áo vải thô mà ôm ngọc quý trong lòng. Trời đất vĩnh cửu. Trời đất vĩnh cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được. Người đắc đạo đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải vì họ không tư lợi mà thành được việc riêng của mình ư? Người cực khéo thì dường như vụng. Người nói giỏi thì dường như ấp úng. Cử động thì thắng được lạnh. Nhưng yên tĩnh thì thắng được nóng. Vậy cứ thanh tĩnh thì mọi vật sẽ đâu vào đấy. Người quân tử gặp thời thì mặc áo gấm mà ngồi xe ngựa, không gặp thời thì mặc áo vải thô mà đi chân đất. Người tốt thật sự không ý thức được tính thiện trong việc làm của mình, trái lại kẻ dại dột (the foolish) luôn cố gắng tỏ ra là mình tốt. Không trọng người hiền để dân không tranh, không quý của hiếm để dân không trộm cắp, không phô bày cái gợi ham muốn để lòng dân không loạn. Chính trị của thánh nhân là làm cho dân lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, không ham muốn, không tranh giành, xương thì mạnh. Khiến cho dân không biết, không muốn, bọn thông minh, mưu trí thì không dám hành động. Theo chính sách "vô vi" thì mọi việc đều yên ổn. Không học thì không phải lo. Đem cái hữu hạn xét cái vô hạn, há chẳng phải là ngốc lắm sao? Càng theo học thì mỗi ngày dục vọng, lòng "hữu vi" càng tăng, theo đạo thì mỗi ngày dục vọng càng giảm, lòng "vô vi" càng tăng. Con người có ba vật báu mà tôi ôm giữ cẩn thận, một là lòng nhân ái, hai là tính tiết kiệm, ba là không dám đứng trước thiên hạ. Vì nhân ái mà sinh ra dũng cảm, vì tiết kiệm mà sinh ra sung túc, rộng rãi, vì không dám đứng trước thiên hạ mà làm chủ được thiên hạ. Nếu không nhân ái mà mong được dũng cảm, không tiết kiệm mà mong được rộng rãi, không chịu đứng sau mà tranh đứng trước người thì tất hỏng việc. Trời muốn giúp ai thì cho người đó lòng nhân ái để tự bảo vệ, lấy lòng nhân ái mà giúp người đó. Người sáng suốt nghe đạo thì cố gắng mà thi hành, người thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ, người tối tăm nghe đạo thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa ?! Vật cực mềm mà lại thắng được vật cực cứng [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực mềm, nó luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì thành sông rạch, thấm vào lòng đất để nuôi vạn vật. Nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tới, gặp cái gì cản thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới được. Đạo cũng ví như nước vậy. Yếu thắng được mạnh, mềm thắng được cứng, ai cũng biết như vậy nhưng không ai thực hành được. Vật bén nhọn thì dễ gẫy. Giữ cho chậu đầy hoài, chẳng bằng thôi đi; con dao cố mài cho bén thì lại không bén lâu. Nghèo hèn chính là gốc của giàu sang. Vàng ngọc đầy nhà [kim ngọc mãn đường], sao mà giữ nổi ? Nên biết khi nào là đủ [tri túc]. Giàu mà kiêu căng, khoe khoang là tự rước họa vào thân. Ba mươi nan hoa cùng qui vào một cái bánh xe, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bánh mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ cái khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa, cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà cửa nhà mới dùng để ra vào được, nhờ có cửa sổ mà nhà không tối. Vậy ta tưởng cái "hữu" [bánh, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái "vô" mới làm cho cái "hữu" có ích. Vinh hay nhục thì lòng cũng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn. Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng rối loạn [mừng rỡ mà!]; mất thì lòng rối loạn [rầu rĩ mà!]; cho nên mới bảo là vinh, nhục sinh ra rối loạn. Vậy phải làm sao ? Chúng ta sỡ dĩ sợ vạ lớn là vì chúng ta có cái thân. Nếu chúng ta quên cái thân mình đi, thì còn sợ gì lòng rối loạn nữa ?! Cho nên người nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ, thì có thể tin cậy vào kẻ đó được. Người nào giữ được đạo thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể bỏ cái qua cái cũ mà chấp nhận cái mới được. Khi xem xét sự vật, không được quên mặt đối lập của nó. Nghĩ đến cái hữu hạn thì đừng quên cái vô hạn. Đứng một chân thì không thể đứng được lâu, giang chân ra thì không thể đi được, tự biểu hiện thì không bao giờ chói lọi, tự kể công thì không có công, tự phụ thì chẳng khuyên bảo được ai, kẻ vẽ rắn thêm chân thì không trường tồn. Thái độ đó được ví như thức ăn thừa, ung nhọt, người người đều ghét. Thiên bất dung gian. Cho cái đẹp là đẹp do đó mới có cái xấu; cho cái thiện là thiện do đó mới có cái ác. Là vì "có" và "không" sinh ra lẫn nhau, "dễ" và "khó" tạo nên lẫn nhau, cao thấp dựa vào nhau mà tồn tại. Biết người là khôn, tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Biết thế nào là đủ là người giàu; biết gắng sức là người có chí. Kẻ nào không rời bỏ những điều trên thì sẽ được lâu dài, chết mà không mất là trường thọ. Người hiểu đạo làm việc tuân theo quy luật tự nhiên, chỉ làm những việc cần thiết cho bản thân. Hồn nhiên vô tư, vô dục như đứa trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý. Đứa trẻ mới sinh độc trùng không chích, mãnh thú không ăn thịt, ác điểu không vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, suốt ngày gào hét mà giọng không khản, như vậy là khí cực hòa. Tuyệt thánh, bỏ mưu trí dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân trở nên hiếu hòa; dứt trí khôn, bỏ lợi lộc, không còn trộm giặc. Ba cái đó (mưu trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì chỉ là cái vẻ bên ngoài không đủ để trị dân nên phải bỏ; khiến cho dân quy về điều này: ngoài thì mộc mạc, trong thì giữ sự đơn giản, giảm tư tâm bớt dục vọng mới là tích cực. Đạo trời không thiên vị ai, luôn ban ơn cho người có đức - Lão Tử Giọng kính trọng khác với giọng xem thường bao nhiêu ? Thiện với ác khác nhau như thế nào ? Cái mọi người sợ ta không thể không không sợ. Vũ trụ thật rộng lớn, không thể nào hiểu hết được. Mọi người hớn hở như dự bữa tiệc lớn, như mùa xuân dạo chơi; bậc đắc đạo điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ chưa biết gì, thản nhiên mà đi như không có nơi để về. Mọi người có thừa, riêng bậc đắc đạo như thiếu thốn, trong lòng thì trống rỗng! Mọi người đều có chỗ để dùng, riêng bậc đắc đạo luôn bảo thủ. Người hiểu đạo khác người mà quý mẹ của muôn loài (tức đạo). Vạn vật tuần hoàn, trong dương có âm, âm cực dương sinh, có sinh ắt có tử, trăng tròn trăng khuyết. Vạn vật biến đổi rồi trở về với đạo. Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo ra vạn vật. Chúng ta do đâu biết được vạn vật ? Là nhờ đạo. Có câu: "Khiêm tốn là gốc của cao quý". Người khôn ngoan giữ lấy đạo làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải nên mới chói lọi, không tự kể công nên mới là có công, không tự phụ cho nên mới hơn người. Vì không tranh với ai nên không ai tranh với mình được. Có câu: "Cong (chịu khuất phục) thì sẽ được bảo toàn", há phải hư ngôn! Nên chân thành giữ lấy đạo mà về với nó. Trong trời đất có bốn cái vĩ đại là Đạo, tự nhiên, trời đất và con người. Luật con người nên bắt chước tự nhiên, luật tự nhiên bắt chước luật của trời đất, luật trời đất bắt chước Đạo. Ít nói thì hợp với tự nhiên. Cơn gió lớn không thể thổi suốt buổi sáng, cơn mưa lớn không kéo dài suốt ngày. Ai làm ra những cái ấy? Chính là do trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống chi là con người ? Người hiểu đạo biết rằng không ai có thể đoán trước những gì tương lai nắm giữ. Vũ khí là vật gây lo sợ, ai cũng ghét cho nên người hiểu đạo không dùng binh khí. Chỉ dùng đến nó khi bất đắc dĩ, khi bảo vệ hòa bình, mà dùng đến thì điềm đạm là hơn cả. Chiến thắng mà vui mừng tức là thích giết người. Thích giết người thì không trị được thiên hạ. Chỗ nào đóng quân thì gai góc mọc đầy. Sau cuộc chinh chiến tất có mất mùa. Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trọng bên phải. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng thương tiếc mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử. Thắng mà không bức người, vì vật mạnh thì có lúc suy. Nếu không như vậy thì là trái Đạo. Trái Đạo thì sớm bị tiêu diệt. Trị nước phải được tiến hành cẩn thận, giống như việc nấu cá nhỏ. Người khôn ngoan làm việc mà không bao giờ xảo trá, tư lợi.
THỂ ĐẠO - LÃO TỬ ĐẠO ĐỨC KINH (THIÊN THƯỢNG) Nguyên văn Hán Tự 道 可 道 , 非 常 道 ; 名 可 名 , 非 常 名 . 無 , 名 天 地 之 始 ; 有 , 名 萬 物 之 母 . 故 常 無 , 欲 以 觀 其 妙 ; 常 有 , 欲 以 觀 其 故 常 無 . 欲 以 觀 其 妙 ; 常 有 , 欲 以 觀 其 徼. 此 兩 者 , 同 出 而 異 名 . 同 謂 之 玄 . 玄 之 又 玄 . 衆 妙 之 門 . Dịch Hán Việt Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh. Vô, danh thiên địa chi thủy; hữu, danh vạn vật chi mẫu. Cố thường vô, dục dĩ quan kì diệu; thường hữu, dục dĩ quan kì kiếu. Thử lưỡng giả, đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn. Dịch nghĩa Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cửu bất biến; tên mà có thể đặt ra để gọi nó [đạo] thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến. “Không”, là gọi cái bản thủy của trời đất; “Có” là gọi mẹ sinh ra muôn vật. Cho nên, tự thường đặt vào chỗ “không” là để xét cái thể vi diệu của nó [đạo]; tự thường đặt vào chỗ “có” là để xét cái [dụng] vô biên của nó. Hai cái đó [không và có] cũng từ đạo ra mà khác tên, đều là huyền diệu. Huyền diệu rồi lại thêm huyền diệu, đó là cửa của mọi biến hóa kì diệu. --------------------------------------- Luận giải Lão tử chỉ bảo: Đạo không thể diễn tả được, mà không nói rõ tại sao, nhưng câu 2 và câu 3 cho ta đoán được ý ông. Đạo là “không”, siêu hình, là bản nguyên (hoặc tổng nguyên lí của vũ trụ), cái “thể” của nó cực kì huyền diệu; mà cái “dụng” của nó lại vô cùng (vì nó là mẹ của vạn vật), cho nên người thường chúng ta - một phần tử cực kỳ nhỏ bé của nó, đời sống lại cực kỳ ngắn ngủi - may lắm là thấy được vài qui luật của nó, vài cái “dụng” của nó chứ không sao hiểu nó được. Không hiểu nó được thì làm sao diễn tả nó được. Lão Tử mở đầu Đạo Đức Kinh bằng 6 chữ: “Đạo khả đạo phi thường đạo” như có ý báo trước cho ta rằng ông sẽ chỉ có thể gợi cho ta ít điều về đạo thôi, để cho ta suy nghĩ, tìm hiểu lấy bằng trực giác, chứ ông không chứng minh cái gì cả. Chính ông, ông cũng không hiểu rõ về đạo, ngôn ngữ của ông không diễn tả nó được, và đọc ông ta đừng nên “cầu thậm giải” như Đào Uyên Minh sau này đã khuyên. Đạo không thể giảng được, mà cũng không có tên, không thể đặt tên cho nó được, vì nó độc lập tuyệt đối, không có hình tượng, thuộc tính. Gọi một vật là là cái ghế vì vật đó có những thuộc tính của loại ghế: có ba hay bốn chân, có mặt để ta ngồi, lưng để dựa… Đạo “sinh ra trước trời đất, trước muôn vật, nó độc lập tuyệt đối, không có đồng loại, như vậy thì làm gì có tên. Vả lại tên vốn có tính cách giới hạn và quyết định: tên trỏ cái ghế thì không thể dùng trỏ cái bàn; một vật mang tên ghế thì nhất định chỉ là cái ghế chứ không thể đồng thời vừa là cái ghế vừa là cái bàn. Một vật cái tên thì không thể đồng thời vừa ở chỗ này vừa ở chỗ khác. Đạo – như sẽ thấy ở một số chương sau – vốn “đi khắp không ngừng”, vừa ở đây vừa ở kia, vừa là cái này vừa là cái nọ; vì vậy không thể có một tên nào thích hợp với nó được. Đành phải tạm gọi nó là đạo. Tóm lại, đại ý chương này là: đạo vĩnh cửu bất biến, không thể giảng được, không thể tìm một tên thích hợp với nó được; cái thể của nó là “không”, huyền diệu vô cùng, mà cái dụng của nó là “hữu” lớn lao vô cùng.
AN DÂN - Lão Tử Đạo Đức Kinh Nguyên văn Hán tự 不尚賢 , 使民不爭; 不貴難得之貨, 使民不爲盜; 不見可欲, 使 民心不亂. 是以聖人之,治虛其心, 實其腹; 弱其志, 强其骨. 常使民無知無欲 , 使夫智者不敢爲也 , 爲無爲, 則無不治. Dịch Hán Việt Bất thượng hiền, sử dân bất tranh; bất quí nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo; bất hiện khả dục, sử dân tâm bất loạn. Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kì tâm, thực kì phúc; nhược kì chí, cường kì cốt. Thường sử dân vô tri vô dục, sử phù trí giả bất cảm vi giả, vi vô vi, tắc vô bất trị. Dịch nghĩa Không trọng người hiền để cho dân không tranh. Không quí của hiếm để cho dân không trộm cướp, không phô bày cái gì gợi lòng ham muốn, để cho lòng dân không loạn. Cho nên, chính trị của thánh nhân là làm cho dân: lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, tâm chí thì yếu (không ham muốn, không tranh giành), xương cốt thì mạnh. Khiến cho dân không biết, không muốn, mà bọn trí xảo không dám hành động. Theo chính sách “vô vi” thì mọi việc đều trị. Luận giải Chương này ý nghĩa thật rõ. Lão tử cho lòng ham muốn danh lợi là đầu mối của loạn. Nho, Mặc đều trọng hiền (Luận ngữ, thiên Tử Lộ, khuyên “đề cử hiền tài”; Lễ kí, thiên Lễ vận chủ trương “tuyển hiền dữ năng”; còn Mặc Tử thì có thiên Thượng hiền), khiến cho dân thèm khát danh lợi, dùng trí xảo để tranh nhau danh lợi. Ông chê lối trị dân đó, bảo bậc thánh nhân (thánh nhân theo quan niệm của ông, chứ không phải hạng thánh nhân theo quan niệm Khổng, Mặc) chỉ cần lo cho dân đủ ăn, khỏe mạnh, thuần phác (vô tri) không ham muốn gì cả (vô dục), như vậy là vô vi mà nước sẽ trị. VÔ NGUYÊN - Lão Tử Đạo Đức Kinh Nguyên văn Hán tự 道 沖, 而 用 之 或 不 盈 , 淵 兮 似 萬 物 之 宗. 挫 其 銳 , 解 其 紛 , 和 其 光 , 同 其 塵 ; 湛 兮 似 或 存. 吾 不 知 誰 之 子 , 象 帝 之 先 . Dịch Hán Việt Đạo xung, nhi dụng chi hoặc bất doanh, uyên hề tự vạn vật chi tôn. Toả kì nhuệ, giải kì phân, hoà kì quang, đồng kì trần; trạm hề tự hoặc tồn. Ngô bất tri thuỳ chi tử, thượng đế chi tiên. Dịch nghĩa Đạo, bản thể thì hư không mà tác dụng thì cơ hồ vô cùng, nó uyên áo mà tựa như làm chủ tể vạn vật. Nó không để lộ tinh nhuệ ra, gỡ những rối loạn, che bớt ánh sáng, hòa đồng với trần tục; nó sâu kín (không hiện) mà dường như trường tồn. Ta không biết nó là con ai; có lẽ nó có trước thượng đế. Luận giải Chương này là chương duy nhất nói đến Thượng đế, mà có 12 chữ y hệt một số chương khác (tức những chữ: toả kì nhuệ, giải kì phân, hoà kì quang, đồng kì trần). Đại ý chương này cũng chỉ là nói về Thể và Dụng của Đạo. DƯỠNG THÂN - Lão Tử Đạo đức Kinh Nguyên văn Hán tự 天下皆知美之爲美, 斯惡已; 皆知善之爲善, 斯不善已. 故有無相生, 難易相成, 長短相形, 高下相傾, 音聲相和, 前後相隨. 是以聖人處無爲之事, 行不言之教; 萬物作焉而不辭, 生而不有, 爲而不侍, 功成而不居. 夫唯不居, 是以不去. Dịch Hán Việt Thiên hạ giai tri mĩ chi vi mĩ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hoà, tiền hậu tương tuỳ. Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo; vạn vật tác yên nhi bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, công thành nhi bất cư. Phù duy bất cư, thị dĩ bất khứ. Dịch nghĩa Ai cũng cho cái đẹp là đẹp, do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái xấu; ai cũng cho điều thiện là thiện, do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái ác. Là vì “có” và “không” sinh lẫn nhau; dễ và khó tạo nên lẫn nhau; ngắn và dài làm rõ lẫn nhau; cao và thấp dựa vào nhau; âm và thanh hòa lẫn nhau; trước và sau theo nhau. Cho nên, thánh nhân xử sự theo thái độ “vô vi”, dùng thuật “không nói” mà dạy dỗ, để cho vạn vật tự nhiên sinh trưởng mà không can thiệp vào, khéo nuôi dưỡng vạn vật mà không chiếm làm của mình, làm mà không cậy khéo, việc thành mà không quan tâm tới. Vì không quan tâm tới nên sự nghiệp mới còn hoài. ---------------------------------------- Luận giải Ngay từ câu đầu, cách hiểu đã khác nhau. Có người dịch là: ai cũng biết cái đẹp sở dĩ đẹp, như vậy là đã “nhập” và cái xấu rồi. Có người dịch là: ai cũng cho cái đẹp là đẹp, chính vì vậy mà có cái xấu của nó. Chữ hình và chữ khuynh trong câu 2, có người hiểu: hình là so sánh; khuynh là cùng chiều, hoặc chạm nhau, liên đới nhau. Rồi tới câu 3, từ “vạn vật tác yên…” tới cuối chương, riêng Lưu Tư cho là Lão tử nói về tạo hoá, chứ không phải về thánh nhân. Cũng có lý. Hai chữ cư và khí ở cuối chương, có người dịch là “ở lại” và “bị bỏ đi”; và “công thành nhi bất cư” nghĩa như “công toại (thành) thân thoái”. Nhưng đại ý ai cũng nhận rằng Lão Tử nói về luật tương đối (sự vật không có gì là tuyệt đối hay xấu, so với cái này thì là tốt, so với cái khác lại là xấu, lúc này là tốt, lúc khác là xấu) và phản đối thói đương thời, nhất là phái Khổng, phái Mặc dùng trí mà phân biệt rõ ràng xấu, tốt, khiến cho người ta bỏ tự nhiên đi mà cầu tốt, bỏ xấu, hóa ra trá ngụy, do đó sinh hại. Ông khuyên ta cứ để cho dân sống theo tự nhiên mà đừng can thiệp (thái độ Vô vi), đừng đem quan niệm sai lầm về tốt xấu mà uốn nắn dân (thuật bất ngôn chi giáo), như vậy sẽ thành công mà sự nghiệp sẽ bất hủ vì chính đạo cũng không làm khác (đạo pháp tự nhiên). Chúng ta để ý: Khổng Tử cũng đã có lần muốn “vô ngôn” và bảo Tử Cống: “Thiên hà ngôn tai? Tứ thời hành yên, bách vật sinh yên. Thiên hà ngôn tai?” - Trời có nói gì đâu? Thế mà bốn mùa cứ thay nhau, vạn vật cứ sinh hóa. Trời có nói gì đâu? (Luận ngữ) Luật tương đối trong chương này sau được Trang tử diễn rõ ràng và rành mạch hơn trong thiên Tề vật luận.
HƯ DỤNG - Lão Tử Đạo Đức Kinh Nguyên văn Hán tự 天 地 不 仁 , 以 萬 物 爲 芻 狗 ; 聖 人 不 仁 , 以 百 姓 爲 芻 狗 . 天 地 之 間 , 其 猶 橐 龠 乎 ! 虛 而 不 屈 , 動 而 愈 出 . 多 言 數 窮 , 不 如 守 中 . Dịch Hán Việt Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu. Thiên địa chi gian, kì do thác thược hồ! Hư nhi bất khuất, động nhi dũ xuất. Đa ngôn sác cùng, bất như thủ xung. Dịch nghĩa Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó rơm. Khoảng giữa trời đất như ống bễ, hư không mà không kiệt, càng chuyển động, hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự hư tĩnh. Luận giải Trời đất, tức luật thiên nhiên, không có tình thương của con người (bất nhân) không tư vị với vật nào, cứ thản nhiên đối với vạn vật, lẽ đó dễ hiểu mà loài người thời nào và ở đâu cũng thường trách tạo hóa như vậy. Những câu: ưu thắng liệt bại, cạnh tranh để sinh tồn, tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chi, có sinh thì có tử... đều diễn ý cái ý “thiên địa bất nhân”. Đang thời thì dùng, quá thời thì bỏ như cây cối xuân hạ tươi tốt, khi trổ hoa kết trái rồi qua thu đông thì điêu tàn. Cho nên Lão tử bảo trời đất coi vạn vật như chó rơm. Những con chó kết bằng rơm khi chưa bầy để cúng thì được cất kỹ trong rương hoặc giỏ, bao bằng gấm vóc, khi cúng xong rồi thì người ta liệng nó ra đường, người đi đường giẫm lên đầu, lên cổ chúng hoặc lượm về để nhóm lửa (Trang Tử - thiên Thiên vận). Lão tử chỉ muốn khuyên ta trị dân thì cứ theo đạo, theo tự nhiên, mà để cho dân tự nhiên phát triển theo thiên tính, đừng can thiệp vào. Câu sau Lão tử so sánh khoảng trời đất với cái ống bễ. Rất đúng và tài tình. Cả hai đều hư không mà không cùng kiệt (có nhà dịch bất khuất là không bẹp xuống: ý cũng vậy), mà cả hai càng động thì hơi gió càng phát ra nhiều. Cái dụng của cái hư không (vô) như vậy đó. Hiểu theo cách đó, không biết đúng không; nhưng như vậy thì hai phần của chương mới có liên lạc với nhau: cùng nói về cách trị dân: đừng dùng nhân (nghĩa), cứ thuận tự nhiên, hư tĩnh vô vi. THÀNH TƯỢNG - Lão Tử Đạo Đức Kinh Nguyên văn Hán tự 谷 神 不 死 , 是 謂 玄 牝 , 玄 牝 之 門 , 是 謂 天 地 根 . 綿 綿 若 存 , 用 之 不 勤 . Dịch Hán Việt Cốc thần bất tử, thị vị huyền tẫn, huyền tẫn chi môn, thị vị thiên địa căn. Miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần. Dịch nghĩa Thần hang bất tử, gọi là Huyền Tẫn (Mẹ nhiệm màu); cửa Huyền Tẫn là gốc của trời đất. Dằng dặc mà như bất tuyệt, tạo thành mọi vật mà không kiệt (hay không mệt). Luận giải Vì có hai chữ cốc thần nên có người cho rằng đây là một thần thoại nào đó như trong bộ Sơn Hải kinh. Vì hai chữ đó với hai chữ Huyền tẫn nên có nhà lại bảo chương này có tính cách bí giáo (ésotérique), và các Đạo gia đời sau (Hán, Lục Triều...) hiểu theo một nghĩa riêng để tìm phương pháp trường sinh. Về triết lí, ý nghĩa không có gì bí hiểm. Thần hang tượng trưng cho Đạo; thể của nó là hư vô nên gọi là hang, dụng của nó vô cùng nên gọi là thần; vô sinh hữu, hữu sinh vạn vật, nên gọi nó là Mẹ nhiệm màu; nó sinh sinh hóa hóa, nó “động nhi dũ xuất” cho nên bảo là không kiệt. THAO QUANG - Lão Tử Đạo Đức Kinh Nguyên văn Hán tự 天 長 地 久 . 天 地 所 以 能 長 且 久 者 以 其 不 自 生 , 故 能 長 生 . 是 以 聖 人 後 其 身 而 身 先 , 外 其 身 而 身 存 . 非 以 其 無 私 耶 , 故 能 成 其 私 . Dịch Hán Việt Thiên trường địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kì bất tự sinh, cố năng trường sinh. Thị dĩ thánh nhân hậu kì thân nhi thân tiên, ngoại kì thân nhi thân tồn. Phi dĩ kì vô tư dả? Cố năng thành kì tư. Dịch nghĩa Trời đất trường cửu. Sở dĩ trời đất trường cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được. Vì vậy thánh nhân đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải vì thánh nhân không tự tư mà thành được việc riêng của mình ư? Luận giải Có nhà dịch bất tự sinh (câu đầu) là không có đời sống riêng. Trời đất không có đời sống riêng vì đời sống của trời đất là đời sống của vạn vật trong vũ trụ, đời sống của Đạo, mà Đạo thì vĩnh cửu. Không có đời sống riêng với không sống riêng cho mình, nghĩa cũng như nhau. Chương này diễn một qui tắc xử thế quan trọng của Lão tử: quy tắc Khiêm, Nhu mà sau này chúng ta còn gặp nhiều lần nữa. “Hậu kỳ thân” là khiêm; “ngoại kỳ thân” là nhu, vì không tranh với ai. “Đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được” nghĩa là không nghĩ tới mình, chỉ lo giúp người thì lại có lợi cho mình. DỊ TÍNH - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này Lão Tử dùng hình ảnh Nước để nhấn mạnh ý nghĩa và Thể Dụng của Đạo Khiêm Nhu một cách tài tình và sâu sắc. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 上 善 若 水 . 水 善 利 萬 物 而 不 爭 , 處 眾 人 之 所 惡 , 故 幾 於 道 . 居 善 地 , 心 善 淵 , 與 善 仁 , 言 善 信 , 正 善 治 , 事 善 能 , 動 善 時 . 夫 唯 不 爭 , 故 無 尤 . Dịch Hán Việt Thượng thiện nhược thuỷ. Thuỷ thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư đạo. Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời. Phù duy bất tranh, cố vô vưu. Dịch nghĩa Người thiện vào bậc cao (có đức cao) thì như nước. Nước khéo làm lợi cho vạn vật mà không tranh với vật nào, ở chỗ mọi người ghét (chỗ thấp) cho nên gần với đạo. (Người thiện vào bậc cao) địa vị thì khéo lựa chỗ khiêm nhường, lòng thì khéo giữ cho thâm trầm, cư xử với người thì khéo dùng lòng nhân, nói thì khéo giữ lời, trị dân thì giỏi, làm việc thì có hiệu quả, hành động thì hợp thời cơ. Chỉ vì không tranh với ai, nên không bị lầm lỗi. Luận giải Chương này có một hình ảnh khéo: Ví người thiện với Nước, làm rõ thêm cái ý Khiêm Nhu trong chương trên. Lão tử rất thích nước: nó “nhu”, tìm chỗ thấp (khiêm), ngày đêm chảy không ngừng (bất xả trú dạ - lời Khổng tử), bốc lên thì thành mưa móc, chảy xuống thì thành sông rạch, thấm nhuần vào lòng đất để nuôi vạn vật. Nó có đức sinh hóa, tự sinh tự hóa, và sinh hóa mọi loài. Nhất là nó không tranh, nó lựa chỗ thấp mà tới, gặp cái gì cản nó thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới được. VẬN DI - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này, Lão Tử đề cập đến cách đối nhân xử thế trong cuộc sống. “Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ; phú quý nhi kiêu, tự di kì cữu.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 持 而 盈 之 , 不 如 其 已 ; 揣 而 銳 之 , 不 可 長 保 . 金 玉 滿 堂 , 莫 之 能 守 ; 富 貴 而 驕 , 自 遺 其 咎 . 功 成 身 退 , 天 之 道 . Dịch Hán Việt Trì nhi doanh chi, bất như kì dĩ; suỷ nhi nhuệ chi, bất khả trường bảo. Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ; phú quý nhi kiêu, tự di kì cữu. Công thành thân thoái, thiên chi đạo. Dịch nghĩa Giữ chậu đầy hoài, chẳng bằng thôi đi; mài cho bén nhọn thì không bén lâu. Vàng ngọc đầy nhà, làm sao giữ nổi; giàu sang mà kiêu là tự rước lấy họa. Công thành rồi thì nên lui về, đó là Đạo trời. Luận giải Đạo trời (đạo tự nhiên) là đầy thì phải vơi, nhọn thì dễ gẫy. Vậy xử thế đừng nên tự mãn, tự kiêu, thành công rồi thì nên lui về. Đây chỉ là kinh nghiệm của mọi người, thuộc về túi khôn của dân gian, để được sống yên ổn. Câu nhì đã thành châm ngôn. Và bốn chữ “công thành thân thoái” có thể là châm ngôn lưu hành trước Lão tử từ lâu.
NĂNG VI - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này Lão Tử luận về phép dưỡng sinh, trị thân và trị thế. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 載 營 魄 抱 一 , 能 無 離 乎 ? 專 氣 致 柔 , 能 嬰 兒 乎 ? 滌 除 玄 覽 , 能 無 疵 乎 ? 愛 國 治 民 , 能 無 爲 乎 ? 能 爲 雌 乎 ? 明 白 四 達 , 能 無 知 乎 ? 生 之 畜 之 , 生 而 不 有 , 爲 而 不 恃 , 長 而 不 宰 , 是 謂 玄 德 . Dịch Hán Việt Tải doanh phách bão nhất, năng vô li hồ? Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ? Địch trừ huyền lãm, năng vô tì hồ? Ái quốc trị dân, năng vô vi hồ? Thiên môn khai hạp, năng vi thư hồ? Minh bạch tứ đạt, năng vô tri hồ? Sinh chi súc chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trường nhi bất tể, thị vị huyền đức. Dịch nghĩa Cho hồn, phách thuần nhất, không rời đạo được không? Cho cái khí tụ lại, mềm mại như đứa trẻ sơ sinh được không? Gột rửa tâm linh cho nó không còn chút bợn được không? Yêu dân trị nước bằng chính sách vô vi được không? Vận dụng cảm quan để giữ hư tĩnh được không? Chân tri sáng rõ hiểu biết được tất cả mà không dùng tới trí lực được không? Sinh và dưỡng vạn vật. Sinh mà không chiếm cho mình, làm mà không cậy công, để cho vạn vật tự lớn lên mà mình không làm chủ, như vậy gọi là Huyền Đức - đức cao nhất, huyền diệu. Luận giải Chương này có vài chỗ mỗi người dịch một khác. Câu đầu: chữ tải dùng cũng như chữ phù 夫 , để mở đầu chứ không có nghĩa. Chữ doanh nghĩa là: hồn. Hồn thuộc về phần khí “linh”, phách thuộc về phần huyết, cho nên có nhà cho doanh phách là tâm, thân. Bão nhất có nhà dịch là giữ lấy đạo, và vô li là doanh và phách không rời nhau. Câu thứ nhì, đa số hiểu chữ khí là hơi thở, và cho chuyên khí là một phép dưỡng sinh; nhưng có nhà lại hiểu là “bảo toàn thiên chân”. Câu thứ ba, chữ lãm, có thể hiểu như chữ giám 鑑 là tấm gương. Câu thứ năm, thiên môn khai hạp nghĩa đen là cửa trời mở đóng: cửa trời tức là mắt, tai, mũi... nói chung là cảm quan; thư là con mái, tượng trưng sự nhu nhược, yên tĩnh. Đại khái thì ba câu đầu nói về phép dưỡng sinh, trị thân. Ba câu kế nói về phép trị thế. Hai phép đó giống nhau ở chỗ đều phải thuận theo tự nhiên. VÔ DỤNG - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này Lão Tử giải thích rất tài tình về triết lý Dụng của “Vô”. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 三 十 輻 , 共 一 轂 , 當 其 無 , 有 車 之 用 . 埏 埴 以 爲 器 , 當 其 無 , 有 器 之 用 . 鑿 戶 牖 以 爲 室 , 當 其 無 , 有 室 之 用 . 故 有 之 以 爲 利 , 無 之 以 爲 用 . Dịch Hán Việt Tam thập phúc, cộng nhất cốc, đương kì vô, hữu xa chi dụng. Duyên thực dĩ vi khí, đương kì vô, hữu khí chi dụng. Tạc hộ dũ dĩ vi thất, đương kì vô, hữu thất chi dụng. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng. Dịch nghĩa Ba mươi tay hoa cùng qui vào một cái bầu, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bầu mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ khoảng trống ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa và cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được. Vậy ta tưởng cái “có” (bầu, chén bát, nhà) có lợi cho ta mà thực ra cái “không” mới làm cho cái “có” hữu dụng. Luận giải Chương này rất hay: ý tưởng như ngược đời mà thực sâu sắc. Ba thí dụ đều khéo. Không triết gia nào cho ta thấy được diệu dụng của cái “không” (Vô) một cách minh bạch, lí thú như vậy. Chương KIỂM DỤC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này luận về nguồn gốc của Dục và gợi ý cách thức Kiểm Dục. Cách tiếp cận này mang tính Biện chứng luận rất cao. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 五 色 令 人 目 盲 ; 五 音 令 人 耳 聾 ; 五 味 令 人 口 爽 ; 馳 騁 畋 獵 令 人 心 發 狂 ; 難 得 之 貨 令 人 行 妨 . 是 以 聖 人 爲 腹 不 爲 目 , 故 去 彼 取 此 . Dịch Hán Việt Ngũ sắc linh nhân mục manh; Ngũ âm linh nhân nhĩ lung; Ngũ vị linh nhân khẩu sảng; Trì sính điền liệp linh nhân tâm phát cuồng; Nan đắc chi hoá linh nhân hành phương. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục, cố khứ bỉ thủ thử. Dịch nghĩa Ngũ sắc làm cho người ta mờ mắt; ngũ âm làm cho người ta ù tai; Ngũ vị làm cho người ta tê lưỡi; ruổi ngựa săn bắn làm cho lòng người ta mê loạn; vàng bạc châu báu làm cho hành vi người ta đồi bại. Cho nên thánh nhân cầu no bụng mà không cầu vui mắt, bỏ cái này mà lựa cái kia [tức cầu chất phác, vô dục mà bỏ sự xa xỉ, đa dục]. Luận giải Mắt, tay, miệng và lòng đều phải tuân theo Tính Mệnh. nếu không tức là phản nghịch lại, làm cho “tính tự nhiên” bị thương tổn, nên mới nói là: mù, điếc, sai, mất, hóa cuồng. Của khó được là của hiếm, của quý, ai cũng chuộng, cũng ham, thường làm cho đức hạnh bị hư hỏng, tổn thương hoặc thường lấp kín đường đi ngay thẳng của con người, khiến đường đi ấy trở ngại, hiểm nguy, gây ra nhiều họa hại. Chương ÁP SỈ - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này luận về sự Vinh Nhục của con người. Nêu rõ Nhân Quả căn nguyên của nó. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 寵 辱 若 驚 , 貴 大 患 若 身 . 何 謂 寵 辱 若 驚 ? 寵 爲 上 , 辱 爲 下 , 得 之 若 驚 , 失 之 若 驚 , 是 謂 寵 辱 若驚. 何 謂 貴 大 患 若 身 ? 吾 所 以 有 大 患 者 , 爲 吾 有 身 , 及 吾 無 身 , 吾 有 何 患 ? 故貴以身爲天下, 若可寄天下; 愛以身爲天下, 若可託天下. Dịch Hán Việt Sủng nhục nhược kinh, quí đại hoạn nhược thân. Hà vị sủng nhục nhược kinh? Sủng vi thượng, nhục vi hạ, đắc chi nhược kinh, thất chi nhược kinh, thị vị sủng nhục nhược kinh. Hà vị quí đại hoạn nhược thân? Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân, cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn? Cố quý dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả kí thiên hạ; ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả thác thiên hạ. Dịch nghĩa Người đời được vinh hay bị nhục thì lòng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn. Tại sao vinh, nhục sinh ra rối loạn? Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng (mừng rỡ mà) rối loạn, mất thì lòng (rầu rĩ mà) rối loạn; cho nên bảo là vinh nhục sinh ra rối loạn. Tại sao sợ vạ lớn mà sinh ra rối loạn? Chúng ta sở dĩ sợ vạ lớn là vì ta có cái thân. Nếu ta không có thân (quên mình có thân đi) thì còn sợ gì tai vạ nữa. Cho nên người nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ thì có thể giao thiên hạ cho người đó được. Người nào vui vẻ đem thân mình phục vụ thiên hạ thì có thể gởi thiên hạ cho người đó được. Luận giải Trong cuộc sống, ai cũng muốn cầu được Vinh và tránh bị Nhục. Nhưng mấy ai ở đời hiểu được cái lẽ nhân quả của Nhục Vinh. Nếu hiểu thấu thì có thể “trị thiên hạ” được ru. Chương TÁN HUYỀN - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Chương này bàn về bản thể của Đạo. Hơi khó hiểu, tuy nhiên vẫn có những thâm ý nhất định để thâm cứu. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 視 之 不 見 名 曰 夷 ; 聽 之 不 聞 名 曰 希 ; 搏 之 不 得 名 曰 微 . 此 三 者 不 可 致 詰 故 混 而 爲 一 . 其 上 不 皦 , 其 下 不 昧 , 繩 繩 不 可 名 , 復 歸 於 無 物 . 是 謂 無 狀 之 狀 , 無 物 之 象 , 是 謂 惚 恍 . 迎 之 不 見 其 首 , 隨 之 不 見 其 後 . 執 古 之 道 , 以 御 今 之 有 ; 能 知 古 始 , 是 謂 道 紀 . Dịch Hán Việt Thị chi bất kiến danh viết di; thính chi bất văn danh viết hi; bác chi bất đắc danh viết vi. Thử tam giả bất khả trí cật, cố hỗn nhi vi nhất. Kì thượng bất kiểu, kì hạ bất muội, thằng thằng bất khả danh, phục qui ư vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng, thị vị hốt hoảng. Nghinh chi bất kiến kì thủ, tuỳ chi bất kiến kì hậu. Chấp cổ chi đạo, dĩ ngự kim chi hữu; năng tri cổ thuỷ, thị vị đạo kỉ. Dịch nghĩa Nhìn không thấy gọi là Hi, nghe không thấy gọi là Di, nắm không được gọi là Vi. Ba cái đó (Di, Hi, Vi: tức vô sắc, vô thanh, vô hình) truy cứu đến cùng cũng không biết gì được, chỉ thấy trộn lộn làm một thôi. Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt, không thể gọi tên, nó lại trở về cõi vô vật, cho nên bảo là cái trạng không có hình trạng, cái tượng không có vật thể. Nó thấp thoáng, mập mờ. Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi. Ai giữ được cái đạo từ xưa vẫn có thì có thể khống chế được mọi sự vật ngày nay; biết được cái nguyên thủy tức là nắm được giềng mối của đạo. Luận giải Chương này nói về bản thể của Đạo, vô sắc, vô thanh, vô hình, nên không thể giảng được, gọi tên được. Nhưng nó đầy khắp vũ trụ, là căn nguyên của vạn vật, hễ giữ được nó là nắm được chân lí mà xử lí được mọi sự vật. HIỂN ĐỨC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Đức được hiển thị như thế nào? Lão Tử có gợi ý rõ ràng: “Ai có thể đương đục mà lắng xuống để lần lần trong ra? Ai có thể đương hư tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên?” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 古 之 善 爲 道 者 , 微 妙 玄 通 , 深 不 可 識 . 夫 唯 不 可 識 , 故 强 爲 之 容. 豫 兮, 若 冬 涉 川 ; 猶 兮 , 若 畏 四 鄰 ; 儼 兮 , 其若 客 ; 渙 兮 , 若 冰 之 將 釋 ; 敦 兮 , 其 若 樸 ; 曠 兮, 其 若 谷 ; 混 兮; 其 若 濁 . 孰 能 濁 以 靜 之 徐 清? 孰 能 安 以 動 之 徐 生 ? 保 此 道 者, 不 欲 盈 . 夫 唯 不 盈 , 故 能 蔽 而 新 成 . Dịch Hán Việt Cổ chi thiện vi đạo giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức, cố cưỡng vị chi dung. Dự hề, nhược đông thiệp xuyên; do hề, nhược úy tứ lân; nghiễm hề, kì nhược khách; Hoán hề, nhược băng chi tương thích; đôn hề, kì nhược phác; khoáng hề, kì nhược cốc; hỗn hề, kì nhược trọc. Thục năng trọc dĩ tĩnh chi từ thanh? Thục năng an dĩ động chi từ sinh? Bảo thử đạo giả, bất dục doanh. Phù duy bất doanh, cố năng tế nhi tân thành. Dịch nghĩa Người đắc đạo thời xưa tinh tế, mầu nhiệm, thông đạt, sâu xa không thể biết được. Vì không thể biết được, nên phải miễn cưỡng tả họ như sau: Họ rụt rè như mùa đông lội qua sông, nghi ngại như sợ láng giềng bốn bên, nghiêm chỉnh như một người khách, chảy ra, lưu động như băng tan, dày dặn mộc mạc như gỗ chưa đẽo, không hư như cái hang, hỗn độn (lờ đờ) như nước đục. Ai có thể đương đục mà lắng xuống để lần lần trong ra? Ai có thể đương hư tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên? Người nào giữ được đạo ấy thì không tự mãn. Vì không tự mãn nên mới bỏ cái cũ mà canh tân được. Luận giải Đức là thế đó: "tinh tế, mầu nhiệm, thông đạt, sâu xa không thể biết được". Giọng văn ở chương này khác hẳn các chương trên, giống thể từ phú ở cuối đời Chiến Quốc, cho nên ngờ không phải là lời của Lão tử, cũng không phải viết sau khi Lão tử mới mất. QUY CĂN - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Vạn vật đều có Căn nguyên của nó, nhân quả tuần hoàn. “Vạn vật phồn thịnh đều trở về căn nguyên của chúng (tức đạo).”ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 致 虛 極 , 守 靜 篤 , 萬 物 並 作, 吾 以 觀 復 . 夫 物 芸 芸 , 各 復 歸 其 根 . 歸 根 曰 靜 , 是 謂 復 命 . 復 命 曰 常 . 知 常 曰 明 , 不 知 常 , 妄 作 凶 . 知 常 容 , 容 乃 公 , 公 乃 全 , 全 乃 天 , 天 乃 道 , 道 乃 久 , 没 身 不 殆 . Dịch Hán Việt Trí hư cực, thủ tĩnh đốc, vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các phục qui kì căn. Qui căn viết tĩnh, thị vị phục mệnh. Phục mệnh viết thường. Tri thường viết minh, bất tri thường vọng tác hung. Tri thường dung, dung nãi công, công nãi toàn, toàn nãi thiên, thiên nãi đạo, đạo nãi cửu, một thân bất đãi. Dịch nghĩa Hết sức giữ được cực hư, cực tĩnh xem vạn vật sinh trưởng ta thấy được qui luật phản phục (vạn vật từ vô mà sinh ra rồi trở về vô). Vạn vật phồn thịnh đều trở về căn nguyên của chúng (tức đạo). Trở về căn nguyên thì tĩnh, (tĩnh là bản tính của mọi vật, cho nên) trở về căn nguyên gọi là “trở về mệnh”. Trở về mệnh là luật bất biến (thường) của vật. Biết luật bất biến thì sáng suốt, không biết luật bất biến thì vọng động mà gây hoạ. Biết luật bất biến thì bao dung, bao dung thì công bình (vô tư), công bình thì bao khắp, bao khắp thì phù hợp với tự nhiên, phù hợp với tự nhiên thì phù hợp với đạo, hợp với đạo thì vĩnh cửu, suốt đời không nguy. Luận giải Ý nghĩa chương ngày rất rõ: chúng ta phải cực hư tĩnh, bỏ hết thành kiến, tư dục đi mà nhận xét vũ trụ, sẽ thấy luật “qui căn” của vạn vật: từ vô sinh hữu, rồi từ hữu trở về vô; hiểu luật thiên nhiên bất biến đó và hành động theo nó thì suốt đời không bị họa. THUẦN PHONG - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Chúng ta vẫn thấy có câu cửa miệng: "thuần phong mỹ tục". Ở đây chúng ta thấy Lão Tử nói đến “Thuần Phong”, tuy nhiên từ này mang tính triết lý nhân sinh quan sâu sắc. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 太 上 , 不 知 有 之 ; 其 次 , 親 而 譽 之 ; 其 次 , 畏 之 ; 其 次 , 侮 之 . 信 不 足 焉 , 有 不 信 焉 . 悠 兮 , 其 貴 言 . 功 成 事 遂 , 百 姓 皆 謂 : 我 自 然 . Dịch Hán Việt Thái thượng, bất tri hữu chi; kì thứ, thân nhi dự chi; kì thứ, uý chi; kì thứ, vũ chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên. Du hề, kì quí ngôn. Công thành sự toại, bách tính giai vị: ngã tự nhiên. Dịch nghĩa Bậc trị dân giỏi nhất thì dân không biết là có vua, thấp hơn một bực thì dân yêu quí và khen; thấp hơn nữa thì dân sợ; thấp nhất thì bị dân khinh lờn. Vua không đủ thành tín thì dân không tin. Nhàn nhã, ung dung (vì vô vi) mà quí lời nói. Vua công thành, việc xong rồi mà trăm họ đều bảo: “Tự nhiên mình được vậy”. Luận giải Câu đầu, nhiều bản chép là: “Thái thượng, hạ tri hữu chi” nghĩa là “bậc trị dân giỏi nhất thì dân biết là có vua”, nghĩa đó không sâu sắc, không hợp với câu cuối: “bách tính giai vị: Ngã tự nhiên”. Ông vua giỏi thì cứ thuận theo tự nhiên, “cư vô vi nhi sự, hành bất ngôn chi giáo” để cho dân thuận tính mà phát triển, không can thiệp vào việc của dân, nên dân không thấy vua làm gì cả, cơ hồ không có vua. Đoạn sau: “tín bất túc yên”, có người giảng là vua không đủ tin dân. “Du hề”, có người giảng là “lo nghĩ”, e không hợp với thuyết vô vi của Lão tử.
TỤC BẠC- Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Chúng ta vẫn thấy có câu cửa miệng: “thuần phong mỹ tục”. Ở đây chúng ta thấy Lão Tử nói đến “Tục bạc”, tuy nhiên từ này mang tính triết lý nhân sinh quan sâu sắc. Chương trước Lão Tử đã nói về Thuần Phong, phần này nói về Tục, nhưng không phải “Mỹ Tục” mà là “Tục Bạc”. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 大 道 廢 , 有 仁 義 ; 智 慧 出 , 有 大 僞 ; 六 親 不 和 , 有 孝 慈 ; 國 家 昏 亂 , 有 忠 臣. Dịch Hán Việt Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa; trí tuệ xuất, hữu đại ngụy; Lục thân bất hoà, hữu hiếu từ; quốc gia hôn loạn, hữu trung thần. Dịch nghĩa Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy; Gia đình (cha mẹ, anh em, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ; nước nhà rối loạn mới có tôi trung. Luận giải Đạo lớn thì tự nhiên, vô tâm, coi vạn vật như nhau; nhân nghĩa thì hữu tâm yêu vạn vật mà có sự suy tính, phân biệt. Sáu chữ “đại đạo phế, hữu nhân nghĩa”, nghĩa cũng như câu: “Thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi nhậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa”. HOÀN THUẦN- Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phải trở về cái Thuần phác, trở về gốc của Đạo. Nhân-Nghĩa-Trí-Hiếu cần trở về cái gốc của Đạo thuần phác-Hoàn Thuần. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 絕 聖 棄 智, 民 利 百 倍 ; 絕 仁 棄 義 民 復 孝 慈 ; 絕 巧 棄 利 , 盜 賊 無 有 . 此 三 者 以 爲 文 不 足 , 故 令 有 所 屬 : 見 素 抱 樸 , 少 思 寡 欲 . Dịch Hán Việt Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội; tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ; tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu. Thử tam giả dĩ vi văn bất túc, cố linh hữu sở thuộc : hiện tố bão phác, thiểu tư quả dục. Dịch nghĩa Dứt thánh (thánh hiểu theo quan niệm Khổng, Mặc) bỏ trí, dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt (trí) xảo bỏ lợi, không có trộm giặc. Ba cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ (trang sức bề ngoài) không đủ (để trị dân) cho nên (phải bỏ mà) khiến cho dân qui (hoặc chuyên chú) về điều này: ngoài thì biểu hiện sự mộc mạc, trong thì giữ sự chất phác, giảm tư tâm, bớt dục vọng. Luận giải Trong câu nhì, chữ văn trái với chữ phác. Bỏ ba cái “văn” đó mới chỉ là tiêu cực; phải mộc mạc, chất phác, giảm tư tâm, bớt dục mới là tích cực. DỊ TỤC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Dứt bỏ mọi tục học. Sự khác nhau giữa con người theo tục học và bậc Chân nhân theo đạo học. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 絕 學 無 憂 . 唯 之 與 阿 , 相 去 幾 何 ? 善 之 與 惡 , 相 去 若 何 ? 人 之 所 畏 , 不 可 不 畏 . 荒 兮 其 未 央 哉 ! 眾 人 熙 熙 , 如 享 太 牢 , 如 春 登 臺 ; 我 獨 泊 兮 其 未 兆 , 如 嬰 兒 之 未 孩 , 儽 儽 兮 若 無 所 歸 . 眾 人 皆 有 餘 , 而 我 獨 若 遺 ; 我 愚 人 之 心 也 哉 , 沌 沌 兮 ! 俗人昭昭, 我獨昏昏; 俗人察察 , 我獨悶悶, 澹兮其若海, 飂兮若無止. 眾人皆有以, 而我獨頑且鄙. 我獨異於人 , 而貴食母. Dịch Hán Việt Tuyệt học vô ưu. Duy chi dữ a, tương khứ kỉ hà? Thiện chi dữ ác, tương khứ nhược hà? Nhân chi sở úy, bất khả bất úy. Hoang hề kì vị ương tai! Chúng nhân hi hi, như hưởng thái lao, như xuân đăng đài; ngã độc bạc hề kì vị triệu; như anh nhi chi vị hài; luy luy hề nhược vô sở qui. Chúng nhân giai hữu dư, nhi ngã độc nhược di; ngã ngu nhân chi tâm dã tai, độn độn hề! Tục nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn; tục nhân sát sát, ngã độc muộn muộn, đạm hề kì nhược hải, liêu hề nhược vô chỉ. Chúng nhân giai hữu dĩ, nhi ngã độc ngoan thả bỉ. Ngã độc dị ư nhân, nhi quí thực mẫu. Dịch nghĩa Dứt học thì không lo. Dạ (giọng kính trọng) với ơi (giọng coi thường) khác nhau bao nhiêu? Thiện với ác khác nhau thế nào? Cái người ta sợ, ta không thể không sợ. Rộng lớn thay, không sao hết được! Mọi người hớn hở như hưởng bữa tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ mới sinh, chưa biết cười; rũ rượi mà đi như không có nhà để về. Mọi người đều có thừa, riêng ta như thiếu thốn; lòng ta ngu muội, đần độn thay! Người đời sáng rõ, riêng ta tối tăm; người đời trong trẻo, riêng ta hỗn độn, như sóng biển nhấp nhô, như gió vèo vèo không ngừng. Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta khác người, mà quí mẹ nuôi muôn loài (tức Đạo). Luận giải Chương này có nhiều bản, nếu dẫn hết những chỗ khác nhau thì quá rườm. Bốn chữ đầu “tuyệt học vô ưu”, Trần Trụ bảo nên để ở đầu chương trên, Hồ Thích bảo nên để ở cuối chương trên. Để ở đâu cũng khó ổn. Rồi cả đoạn đầu, ý nghĩa cũng tối tăm, cơ hồ không liên lạc gì với đoạn dưới. “Cái người ta sợ” là cái gì? Và cái gì “rộng lớn thay”? Mỗi nhà ráng đưa ra một thuyết. Có người bảo là sợ cái học vì nó mênh mông, không sao hết được. Giảng như vậy thì bốn chữ “tuyệt học vô ưu” không chơi vơi nữa. Nhưng có nhà lại bảo: sợ đây là sợ để lộ cái sáng suốt, tài năng của mình ra, mà sẽ bị người đời đố kị; còn rộng lớn là cái đạo rộng lớn, người đời không sao hiểu hết được. Cả hai giả thuyết đó đều không dựa vào cái gì chắc chắn cả. Đoạn dưới tả chân dung một người đắc Đạo: cực sáng suốt thì như ngu độn. HƯ TÂM - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này Lão Tử mô tả Đạo thể. Đạo là nguyên lý đầu tiên, sinh ra hết thảy, là nguyên thủy của muôn loài trong vũ trụ. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 孔 德 之 容 , 惟 道 是 從 . 道 之 爲 物 , 惟 恍 惟 惚 ; 惚 兮 恍 兮, 其 中 有 象 ; 恍 兮 惚 兮 , 其 中 有 物 . 窈 兮 冥 兮, 其 中 有 精 ; 其 精 甚 眞 , 其 中 有 信 . 自 古 及 今 , 其 名 不 去 , 以 閱 眾 甫 . 吾 何 以 知 眾 甫 之 狀 哉 ? 以 此 . Dịch Hán Việt Khổng đức chi dung, duy đạo thị tòng. Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt; hốt hề hoảng hề, kì trung hữu tượng; hoảng hề hốt hề, kì trung hữu vật. Yểu hề minh hề, kì trung hữu tinh; kì tinh thậm chân, kì trung hữu tín. Tự cổ cập kim, kì danh bất khứ, dĩ duyệt chúng phủ. Ngô hà dĩ tri chúng phủ chi trạng tai. Dĩ thử. Dịch nghĩa Những biểu hiện của Đức lớn đều tùy theo Đạo (vì đạo là bản thể của đức, đức là tác dụng của đạo). Đạo là cái gì chỉ mập mờ, thấp thoáng; thấp thoáng mập mờ mà bên trong có hình tượng; mập mờ, thấp thoáng mà bên trong có vật; nó thâm viễn, tối tăm mà bên trong có cái tinh túy; tinh túy đó rất xác thực, và rất đáng tin. Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo vạn vật. Chúng ta do đâu mà biết được bản nguyên của vạn vật? Do cái đó (tức Đạo). Luận giải Câu đầu, có người hiểu là: ngôn ngữ, cử động của người có Đức lớn đều tùy theo Đạo. Chữ tinh (kì trung hữu tinh) trong đoạn thứ nhì có thể hiểu là nguyên lí và nguyên chất của mọi vật. Chữ tín ở sau, có người dịch là hiệu năng, diệu dụng. Đoạn cuối: chữ danh (tên) có người cho là trỏ bản thể của đạo. Chương này cho ta biết thêm về đạo. Quan trọng nhất là những chữ “kì trung hữu tinh, kì tinh thậm chân, kì trung hữu tín”. Nhờ cái tinh đó mà đạo sinh ra vạn vật. Nhưng cái tinh đó hữu hình hay vô hình? Không có gì cho chúng ta biết chắc được. Có lẽ nó vừa là nguyên lí, vừa là nguyên chất. ÍCH KHIÊM - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này Lão Tử luận rất hay về đức Khiêm-Nhu. “Đạo vốn Khiêm, Nhu, người giữ đạo cũng phải khiêm nhu: cong, queo, tức là Nhu; trũng, cũ, ít tức là Khiêm.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 曲 則 全 , 枉 則 直 , 窪 則 盈 , 敝 則 新 , 少 則 得 , 多 則 惑 . 是 以 聖 人 抱 一 爲 天 下 式 . 不 自 見 故 明 不 自 是 故 彰 ; 不 自 伐 , 故 有 功 ; 不 自 矜 故 長 . 夫 唯 不 爭 故 天 下 莫 能 與 之 爭 . 古 之 所 謂 曲 則 全 者 , 豈 虛 言 哉 ! 誠 全 而 歸 之 . Dịch Hán Việt Khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh, tệ tắc tân, thiểu tắc đắc, đa tắc hoặc. Thị dĩ thánh nhân bão nhất vi thiên hạ thức. Bất tự hiện cố minh bất tự thị cố chương; bất tự phạt, cố hữu công; bất tự căng cố trướng (hoặc trưởng). Phù duy bất tranh cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. Cổ chi sở vị khúc tắc toàn giả, khởi hư ngôn tai! Thành toàn nhi qui chi. Dịch nghĩa Cong (chịu khuất) thì sẽ được bảo toàn, queo thì sẽ thẳng ra, trũng thì sẽ đầy, cũ nát thì sẽ mới, ít thì sẽ được thêm, nhiều thì sẽ hóa mê. Vì vậy mà thánh nhân (thánh ở đây hiểu theo quan niệm của Lão) ôm giữ lấy Đạo (nhất đây là đạo) làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải cho nên mới chói lọi, không tự kể công cho nên mới có công, không tự phụ cho nên mới trường cửu (hoặc hơn người). Chỉ vì không tranh với ai cho nên không ai tranh giành với mình được. Người xưa bảo: “Cong thì sẽ được bảo toàn”, đâu phải hư ngôn! Nên chân thành giữ vẹn cái đạo mà về với nó. Luận giải Câu cuối, “Thành toàn nhi qui chi” có người dịch là: - Thực vẹn đủ nên theo về. - Nếu thành thật hoàn toàn thì ai cũng về với mình. - Do đó mà mình giữ được toàn vẹn. - Thực giữ được vẹn cái đạo chuyên đạo cũng giữ được vẹn cho mình mà mình về với đạo. Các nhà bình giải đều cho rằng bốn hoặc cả sáu châm ngôn trong câu đầu: khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh, tệ tắc tân, thiểu tắc đắc, đa tắc hoặc đều là thành ngữ trong dân gian đã có từ xưa. Họ bảo rằng: Lão tử thích chủ trương thuyết tương đối, nên thường nói ngược với người đời, “nhu tri kì hùng, thủ kì thư, tri kì bạch, thủ kì hắc, tri kì vinh, thủ kì nhục.” Ở đây cũng vậy. Người ta ai cũng muốn được toàn vẹn, thẳng, đầy, mới, có nhiều, riêng ông, cái gì người ta bỏ: cong, queo, trũng, cũ nhát, ít, thì ông lại coi trọng”. Đạo vốn Khiêm, Nhu, người giữ đạo cũng phải khiêm nhu: cong, queo, tức là Nhu; trũng, cũ, ít tức là Khiêm. Khiêm Nhu thắng được tự phụ cương cường. Đó là một lẽ. Còn lẽ nữa là trong vũ trụ không có cái gì bất di bất dịch, thịnh rồi suy, đầy rồi vơi, cho nên bây giờ ở vào trạng thái cong queo thì sau sẽ bảo toàn được sẽ thẳng ra; bây giờ ở vào trạng thái thấp trũng, cũ nát, ít thì sau sẽ được đầy, mới, nhiều. Những kinh nghiệm đó thuộc vào cái túi khôn chung của nhân loại, chẳng riêng của Trung Hoa. Lão tử chỉ có công nhấn mạnh và coi trọng nó hơn những người khác và sắp đặt thành một hệ thống mà dùng đạo, tức luật thiên nhiên làm cơ sở. HƯ VÔ - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Chương này, xét từng câu thì nghĩa dễ hiểu. Nhưng tìm liên lạc giữa các ý thì rất khó. Nhìn chung là phải học Đạo và rèn Đức thì mới là con đường đúng đắn. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 希言自然. 故飄風不終朝, 驟雨不終日. 孰爲此者? 天地. 天地尚不能久, 而況於人乎? 故從事於道者, 同於道; 德者, 同於德; 失者, 同於失. 同於道者, 道亦樂得之; 同於德者, 德亦樂得之; 同於失者, 失亦樂得之. 信不足焉, 有不信焉. Dịch Hán Việt Hi ngôn tự nhiên. Cố phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật. Thục vi thử giả? Thiên địa. Thiên địa thượng bất năng cửu, nhi huống ư nhân hồ? Cố tòng sự ư đạo giả, đồng ư đạo; đức giả, đồng ư đức; thất giả, đồng ư thất. Đồng ư đạo giả, đạo diệc lạc đắc chi; đồng ư đức giả, đức diệc lạc đắc chi; đồng ư thất giả, thất diệc lạc đắc chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên. Dịch nghĩa Ít nói thì hợp với tự nhiên (với đạo).Cho nên gió lốc không hết buổi sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm nên những cái ấy? Trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là người? Cho nên theo đạo thì sẽ hòa đồng với đạo; theo đức thì sẽ hòa đồng với đức; theo sự mất đạo mất đức thì sẽ là một với “mất”. Hòa đồng với đạo thì sẽ vui được đạo; hòa đồng với đức thì sẽ vui được đức; là một với “mất” thì sẽ vui với “mất”. Vua không đủ thành tín thì dân không tin. Luận giải Chữ Thất (mất) trong đoạn nhì có lẽ là chữ Thất trong chương sau: thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi hậu lễ; và có thể hiểu là sự mất Đạo, mất Đức. Theo sự mất đạo mất đức tức là theo Nhân, Nghĩa, Lễ, theo cách trị dân của Khổng Giáo. Lão tử cho cách đó là thấp. Câu “đồng ư đạo giả, đạo diệc lạc đắc chi”, có thể hiểu là hòa đồng với đạo thì đạo cũng vui được ta mà hòa đồng với ta. Như vậy là nhân cách hóa đạo. Hai câu sau cũng vậy. Hiểu theo cách này với hiểu như chúng tôi đã dịch, chung qui cũng không khác nhau. Câu cuối, ở đây vì không chắc là nói về việc trị dân, cho nên có thể dịch là: - Lòng tin ở đạo không đủ, cho nên có sự không tin, - Hoặc mình không tin mình thì người không tin mình, dẫu có nói nhiều cũng vô ích; như vậy ứng với câu đầu: nên ít nói để hợp với đạo. Chương này, xét từng câu thì nghĩa dễ hiểu. Nhưng tìm liên lạc giữa các ý thì rất khó, mỗi người đưa ra một cách giảng; cách nào cũng không xuôi. Chẳng hạn có người giảng: - Người học đạo phải hòa đồng với đạo mà đạo tức thiên nhiên không nói (trời đất nói gì đâu mà mọi vật đều thành tựu), vậy ta cũng nên ít nói, đừng để “nổi” lên những cơn mưa bão trong lòng” (!). Hòa đồng với đạo thì sẽ vui được đạo; muốn vậy phải dốc lòng tin đạo. KHỔ ÂN - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này Lão Tử luận hay và dễ hiểu, Quả thật không dám bình luận thêm gì cả. Đối với Đạo thì những thái độ đó là “những đồ ăn thừa, những cục bướu, ai cũng ghét”. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 企 者 不 立 , 跨 者 不 行 . 自 見 者 不 明 , 自 是 者 不 彰 , 自 伐 者 不 功 , 自 誇 者 不 長 . 其 於 道 也 曰 : 餘 食 贅 行, 物 或 惡 之 , 故 有 道 者 不 處 . Dịch Hán Việt Xí giả bất lập, khoá giả bất hành. Tự hiện giả bất minh, tự thị giả bất chương, tự phạt giả bất công, tự khoa giả bất trường. Kì ư đạo dã viết: dư thực chuế hành, vật hoặc ố chi, cố hữu đạo giả bất xử. Dịch nghĩa Kẻ kiễng chân không đứng được (vững), kẻ xoạc cẳng không đi được (lâu), kẻ tự biểu hiện thì không sáng tỏ, kẻ tự cho là phải thì không chói lọi, kẻ tự kể công thì không có công, kẻ tự phụ thì không trường cửu. Đối với Đạo thì những thái độ đó là “những đồ ăn thừa, những cục bướu, ai cũng ghét”. Cho nên kẻ theo đạo không làm như vậy. Luận giải Ý trong câu thứ nhì: “Tự hiện giả minh... tự khoa giả bất trường” đã được diễn trong chương trước. Câu thứ ba, nhiều nhà cho chữ hành 行 với chữ hình 形 đọc giống nhau, dùng thay cho nhau được. Ta theo chủ trương đó. Có người dịch là việc làm, chuế hành là việc làm thừa, như kiểu vẽ rắn thêm chân. Phần này luận hay và dễ hiểu, Quả thật không dám bình luận thêm gì cả. TƯỢNG NGUYÊN- Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 有 物 混 成 , 先 天 地 生 . 寂 兮 , 寥 兮, 獨 立 而 不 改 , 周 行 而 不 殆 , 可 以 爲 天 地 母 . 吾 不 知 其 名 , 字 之 曰 道 , 强 爲 之 名 曰 大 . 大 曰 逝, 逝 曰 遠 , 遠 曰 反 . 故 道 大 , 天 大 , 地 大 , 人 亦 大 . 域 中 有 四 大 , 而 人 居 其 一 焉 . 人 法 地 , 地 法 天 , 天 法 道 , 道 法 自 然 . Dịch Hán Việt Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên địa mẫu. Ngô bất tri kì danh, tự chi viết đạo, cưỡng vị chi danh viết đại. Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản. Cố đạo đại, thiên đại, địa đại, nhân diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kì nhất yên. Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên. Dịch nghĩa Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết nó là gì, tạm đặt tên nó là Đạo, miễn cưỡng gọi nó là lớn (vô cùng). Lớn (vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì đi xa, đi xa thì trở về (qui căn). Cho nên đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà người là một. Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên. Luận giải Cuối đoạn đầu, “tự chi viết đạo”, “danh chi viết đại”, có người dịch “đặt tên tự là đạo”, “gọi tên là lớn”. Dư Bồi Lâm bảo chữ danh ở đây có nghĩa là “hình dung”, như chữ dung trong “cưỡng vị chi dung” ở chương trước; vậy nên dịch là “miễn cưỡng tả nó là lớn”. Đoạn sau, ba chữ “nhân diệc đại”, bản cổ nhất chép là “vương (vua) diệc đại”, nhưng dù vương hay nhân, nghĩa cũng không khác: vua là chúa của loài người, đại biểu cho loài người, vậy vua lớn, tức là loài người lớn. Câu cuối “đạo pháp tự nhiên”, dịch sát là: đạo bắt chước tự nhiên, nhưng phải hiểu: đạo tức là tự nhiên, đạo với tự nhiên là một, vì ngoài đạo ra không có gì khác nữa. Đạo là tự nhiên. TRỌNG ĐỨC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Đức của bậc Thánh nhân, bậc nhân chủ: phải giữ vững gốc Đạo, không được kiêu căng, khinh bạc, để đến nỗi lìa Đạo, hại nước, hại người, mất ngôi. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên văn Hán tự 重 爲 輕 根 , 靜 爲 躁 君 . 是 以 聖 人 終 日 行 不 離 輜 重 . 雖 有 榮 觀 , 燕 處 超 然 . 奈 何 萬 乘 之 主 , 而 以 身 輕 天 下 ? 輕 則 失 根 , 躁 則 失 君 . Dịch Hán Việt Trọng vi khinh căn, tĩnh vi táo quân. Thị dĩ thánh nhân chung nhật hành bất li tri trọng. Tuy hữu vinh quan, yến xử siêu nhiên. Nại hà vạn thặng chi chủ, nhi dĩ thân khinh thiên hạ? Khinh tắc thất căn, táo tắc thất quân. Dịch nghĩa Nặng là gốc rễ của nhẹ, tĩnh là chủ của náo động. Cho nên thánh nhân (tức vua) suốt ngày đi không lìa xe chở đồ dùng (nặng) tuy được sự sang đẹp mà lòng nhàn tĩnh vượt lên cả (coi thường ngoại vật). Ông vua một nước có vạn cỗ xe (một nước lớn) sao lại có thể lấy thân coi nhẹ thiên hạ? Nhẹ thì mất gốc rễ, náo động thì mất chủ. Luận giải Chữ quan trong câu nhì có thể đọc là quán; vinh quán là chỗ ở sang trọng. Cái gì nặng thì chế ngự được cái nhẹ; cái gì tĩnh thì chế ngự được cái náo động. Nặng, tĩnh là “thường” (trái với biến); nhẹ, náo động là biến. Người theo đạo giữ “thường” mà bỏ biến. Lão tử khuyên các nhà cầm quyền phải dè dặt, thận trọng, và đừng để cho ngoại vật, vinh hoa phú quí làm động lòng. Suy rộng ra người thường trong cuộc sống cũng vậy. XẢO DỤNG - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Chương này Lão Tử luận thật hay. Những yếu tố Xảo Dụng thật thâm sâu và uyển chuyển làm sao. “Không trọng Thầy, không yêu của dùng thì dù cho khôn cũng là lầm lẫn lớn.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 善 行 無 轍 跡 , 善 言 無 瑕 謫 , 善 數 不 用 籌 策 , 善 閉 無 關 楗 而 不 可 開 , 善 結無繩約而不可解 . 是 以 聖 人 常 善 救 人 , 故 無 棄 人 ; 常 善 救 物 , 故 無 棄 物 . 是 謂 襲 明 . 故 善 人 者 , 不 善 人 之 師 ; 不 善 人 者 , 善 人 之 資 . 不 貴 其 師 , 不 愛 其 資 , 雖 智 大 迷 . 是 謂 要 妙 . Dịch Hán Việt Thiện hành vô triệt tích, thiện ngôn vô hà trích, thiện số bất dụng trù sách, thiện bế vô quan kiện nhi bất khả khai, thiện kết vô thằng ước nhi bất khả giải. Thị dĩ thánh nhân thường thiện cứu nhân, cố vô khí nhân; thường thiện cứu vật, cố vô khí vật, thị vị tập minh. Cố thiện nhân giả, bất thiện nhân chi sư; bất thiện nhân giả, thiện nhân chi tư. Bất quí kì sư, bất ái kì tư, tuy trí đại mê. Thị vị yếu diệu. Dịch nghĩa Khéo đi thì không để lại dấu xe, vết chân; khéo nói thì không có lỗi lầm; khéo tính thì không dùng thẻ; khéo đóng thì không dùng then, róng mà mở không được; khéo buộc thì không dùng dây mà cởi không được. Cho nên thánh nhân giỏi cứu người mà không ai bị bỏ; giỏi cứu vật mà không vật nào bị bỏ. Như vậy là sáng lòng (Đức của mình và của người và vật cùng nhau sáng tỏ). Cho nên người thiện (người đắc Đạo) là thầy của người không thiện (người không đắc đạo, người thường); người không thiện là của dùng để người thiện mượn. Không trọng Thầy, không yêu của dùng thì dù cho khôn cũng là lầm lẫn lớn. Thế gọi là cốt yếu, nhiệm màu. Luận giải Đoạn đầu có thể hiểu là: khéo xử sự thì (thuận tự nhiên nên) không lưu lại dấu vết; khéo nói thì (trầm mặc, ít nói, nên) không lỗi lầm, khéo tính toán thì (vô tâm, vô trí nên) không dùng mưu lược; khéo lung lạc người khác thì (thành thực với người nên) không cần giam hãm người, người cũng không bỏ mình mà đi; khéo kết nạp nhân tâm thì không cần trói buộc người, người cũng không bỏ mình mà đi. Đại ý của chương là: cứ thuận tự nhiên, đừng có tư ý, mưu mô thì dùng được mọi người, không phải bỏ ai, mình dạy cho người, người giúp đỡ lại mình mà đức mình càng thêm tỏ.
PHẢN PHÁC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Chương này Lão Tử đặt vấn đề nhân sinh và chính trị thật rõ ràng. Nhân sinh triết học áp dụng vào Chính trị: hết sức không tranh đua giành giật, trở về mộc mạc, quay lại thiên chân và thực hiện phép Vô vi. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 知 其 雄 , 守 其 雌 , 爲 天 下 谿 ; 爲 天 下 谿 , 常 德 不 離 , 復 歸 於 嬰 兒 . 知 其 白 , 守 其 黑 , 爲 天 下 式 ; 爲 天 下 式 , 常 德 不 忒 , 復 歸 於 無 極 . 知 其 榮 , 守 其 辱 , 爲 天 下 谷 ; 爲 天 下 谷 , 常 德 乃 足 , 復 歸 於 樸 . 樸 散 則 爲器 , 聖 人 用 之 , 則 爲 官 長 , 故 大 制 十 不 割 . Dịch Hán Việt Tri kì hùng, thủ kì thư, vi thiên hạ khê; vi thiên hạ khê, thường đức bất li, phục qui ư anh nhi. Tri kì bạch, thủ kì hắc, vi thiên hạ thức; vi thiên hạ thức, thường đức bất thắc, phục qui ư vô cực. Tri kì vinh, thủ kì nhục, vi thiên hạ cốc; vi thiên hạ cốc, thường đức nãi túc, phục qui ư phác. Phác tán tắc vi khí, thánh nhân dụng chi, tắc vi quan trưởng, cố đại chế thập bất cát. Dịch nghĩa Biết trống (nam tính), giữ mái (nữ tính), làm khe nước cho thiên hạ; làm khe nước cho thiên hạ, thì cái Đức vĩnh cửu bất biến sẽ không mất mà trở về trẻ thơ (hồn nhiên). Biết trắng, giữ đen, làm phép tắc cho thiên hạ; làm phép tắc cho thiên hạ thì cái đức vĩnh cửu bất biến sẽ không sai lạc, mà trở về với vô cực (bản thể của Đạo). Biết vinh, giữ nhục, làm cái hay cho thiên hạ; làm cái hay cho thiên hạ thì cái Đức vĩnh cửu bất biến sẽ đầy đủ, mà trở về mộc mạc như gỗ chưa đẽo. Gỗ chưa đẽo, xẻ ra thành đồ dùng; Thánh nhân giữ thuần phác mà điều khiển trăm quan, cho nên người giỏi trị nước không chia cắt chi li. Luận giải Theo Cao Hanh thì 23 chữ từ “thủ kì hắc” tới “tri kì vinh” là do người sau thêm vào. Nhưng đa số các nhà khi phụ chú đều giữ như cũ. “Trống” tượng trưng tính cương, động; “mái” tượng trưng tính nhu, tĩnh. “Trắng” tượng trưng sự quang minh, “đen” tượng trưng sự hôn ám: người giữ đạo thì không tranh sự quang minh với ai mà thích ở trong bóng tối. Câu cuối khuyên người trị dân phải hồn nhiên, chất phác, cứ tự nhiên để cho mọi vật phát triển theo tính của chúng, không đa sự, phân tích chi li. VÔ VI - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử khẳng định: phản đối phép (trị) Hữu Vi, trở về với bản thể của Đạo-Vô vi, tránh cực đoan mà thuận theo lẽ tự nhiên. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 將 欲 取 天 下 而 爲 之 , 吾 見 其 不 得 已 . 天 下 神 器 , 不 可 爲 也 , 不 可 執 也 . 爲 者 敗 之 , 執 者 失 之 . 故 物 或 行 或 隨 , 或 歔 或 吹 , 或 强 或 羸 , 或 挫 或 隳 . 是 以 聖 人 去 甚 , 去 奢 , 去 泰 . Dịch Hán Việt Tương dục thủ thiên hạ nhi vi chi, ngô kiến kì bất đắc dĩ. Thiên hạ thần khí, bất khả vi dã, bất khả chấp dã. Vi giả bại chi, chấp giả thất chi. Cố vật hoặc hành hoặc tuỳ, hoặc hư hoặc xuy, hoặc cường hoặc luy, hoặc toả hoặc huy. Thị dĩ thánh nhân khứ thậm, khứ xa, khứ thái. Dịch nghĩa Muốn trị thiên hạ mà Hữu Vi thì ta biết là không thể được rồi. Thiên hạ là một đồ vật thần diệu, không thể hữu vi, không thể cố chấp được. Hữu vi thì làm cho thiên hạ hỏng, cố chấp thì mất thiên hạ. Sinh vật (người) hoặc đi trước (tích cực) hoặc đi theo (tiêu cực), hoặc hà hơi (cho ấm) hoặc thở (cho nguội), hoặc mạnh hoặc yếu, hoặc an hoặc nguy. Cho nên thánh nhân bỏ những cái gì thái quá. Luận giải Câu đầu, chữ Thủ 取 có nghĩa là trị, như trong câu: “Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự" (trị thiên hạ nên dùng chính sách vô vi) ở chương sau. Chữ Vi cũng trong câu đó, nhiều người dịch là “làm theo ý mình, không thuận theo tự nhiên”. Chúng ta dịch là Hữu Vi cho rõ nghĩa hơn. Câu nhì, bản của Vương Bật là Tỏa 挫 (bẻ gãy), bản của Hà Thượng Công là Tải 載; chữ Huy 隳 dùng như chữ Trụy 墜. Tải là ngồi xe (được xe chở đi), Trụy là té; nghĩa bóng là An và Nguy. Đại ý của chương này cũng là trị dân nên Vô Vi, tránh cực đoan mà cứ thuận theo tự nhiên, vì người và việc đời đổi thay vô định, không thể làm theo ý riêng của ta được. KIỆM VŨ - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này, Lão Tử tuy bàn về vấn đề trị Quốc và quân sự nhưng lại có sự liên tưởng rất hay đến cách “đối nhân xử thế” của cá nhân mỗi người. Vật gì cũng vậy, cường tráng rồi thì sẽ già, như vậy cường tráng là không hợp với đạo. Không hợp đạo thì sớm chết.ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 以 道 佐 人 主 者, 不 以 兵 强 天 下 . 其 事 好 還 . 師 之 所 處 , 荊 棘 生 焉 . 大 軍 之 後 , 必 有 凶 年 . 善 者 果 而 已 , 不 敢 以 取 强 . 果 而 勿 矜 , 果 而 勿 伐 , 果 而 勿 驕 , 果 而 不 得 已 , 果 而 勿 强 . 物 壯 則 老 , 是 謂 不 道 , 不 道 早 已 . Dịch Hán Việt Dĩ đạo tá nhân chủ giả, bất dĩ binh cường thiên hạ. Kì sự hảo hoàn. Sư chi sở xử, kinh cức sanh yên. Đại quân chi hậu, tất hữu hung niên. Thiện giả quả nhi dĩ, bất cảm dĩ thủ cường. Quả nhi vật căng, quả nhi vật phạt, quả nhi vật kiêu, quả nhi bất đắc dĩ, quả nhi vật cường. Vật tráng tắc lão, thị vị bất đạo, bất đạo tảo dĩ. Dịch nghĩa Người giữ đạo mà phò vua thì không dùng binh lực để mạnh hơn thiên hạ. Vì việc như vậy thường hay quay ngược trở lại (hiếu chiến thì lại chết vì chiến tranh). Quân đội đóng ở đâu, gai góc mọc ở đấy. Sau trận chiến tranh lớn, tất bị mất mùa. Người khéo dùng binh hễ có hiệu quả, đạt được mục đích thì thôi, không dám ỷ mạnh hơn thiên hạ. Đạt được mục đích mà không tự phụ, đạt được mục đích mà không khoe công, đạt được mục đích mà không kiêu căng, đạt được mục đích mà bất đắc dĩ, đạt được mục đích mà không lấy làm mạnh. Vật gì cũng vậy, cường tráng rồi thì sẽ già, như vậy cường tráng là không hợp với đạo. Không hợp đạo thì sớm chết. Luận giải Câu đầu, chữ Tá, có bản chép là tác 作 (làm): giữ đạo mà làm Vua. Chữ Cường có thể đọc là Cưỡng = ức hiếp [thiên hạ]; dưới cũng vậy. Câu thứ ba: đạt được mục đích thì thôi. Mục đích đó tất không phải là xâm lăng hay trừng phạt nước khác mà chỉ có thể là tự vệ. Câu cuối: cường tráng không hợp với đạo vì đạo vốn nhu nhược. YỂN VŨ - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử bàn thêm chương này để bổ sung thêm ý của chương trước-phản đối chiến tranh và vũ lực. Phần này gợi ý sự thận trọng khi dùng Vũ lực. “Binh không phải là đồ dùng của bậc Quân tử, mà việc Binh (Vũ lực) luôn là điềm gở.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 夫 佳 兵 者, 不 祥 之 器 . 物 或 惡 之 , 故 有 道 者 不 處 . 君 子 居 則 貴 左 , 用 兵 則 貴 右 . 兵 者 不 祥 之 器 , 非 君 子 之 器 , 不 得 已 而 用 之 , 恬 淡 爲 上 . 勝 而 不 美 , 而 美 之 者, 是 樂 殺 人 . 夫 樂 殺 人 者, 則 得 志 於 天 下 矣 . 吉 事 尚 左 , 凶 事 尚 右 . 偏 將 軍 居 左 , 上 將 軍 居 右 , 言 以 喪 禮 處 之 . 殺 人 之 眾 , 以 悲 哀 泣 之 , 戰 勝 以 喪 禮 處 之 . Dịch Hán Việt Phù giai binh giả, bất tường chi khí. Vật hoặc ố chi, cố hữu đạo giả bất xử. Quân tử cư tắc quí tả, dụng binh tắc quí hữu. Binh giả bất tường chi khí, phi quân tử chi khí, bất đắc dĩ nhi dụng chi, điềm đạm vi thượng. Thắng nhi bất mĩ, nhi mĩ chi giả, thị lạc sát nhân. Phù lạc sát nhân giả, tắc bất khả đắc chí ư thiên hạ hĩ. Cát sự thượng tả, hung sự thượng hữu. Thiên tướng quân cư tả, thượng tướng quân cư hữu, ngôn dĩ tang lễ xử chi. Sát nhân chi chúng, dĩ bi ai khấp chi, chiến thắng dĩ tang lễ xử chi. Dịch nghĩa Vì binh khí là vật bất tường (chẳng lành, gây họa), ai cũng ghét cho nên người giữ Đạo không thích dùng nó. Người quân tử ở nhà thì trọng bên trái, khi dùng binh thì trọng bên phải. [Binh khí là vật bất tường, không phải là của người quân tử, cho nên bất đắc dĩ phải dùng nó, mà dùng đến thì điềm đạm (bình tĩnh, giữ được hòa khí, tránh cực đoan) là hơn cả. Thắng cũng không cho là hay, nếu cho là hay tức là thích giết người. Kẻ nào thích giết người thì không thực hiện được lí tưởng trị thiên hạ]. Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trong bên phải. Phó tướng ở bên trái, thượng tướng ở bên phải, như vậy có nghĩa là coi việc dùng binh như một tang lễ. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc; chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử. Bên trái là dương, bên phải là âm; dương thì sinh, âm thì sát, cho nên người quân tử khi ở nhà thì trọng bên trái (bên sinh); nhưng khi dùng binh, phải giết người, thì lại trọng bên phải, và để viên thượng tướng ở bên phải, viên phó tướng ở bên trái. Trong các tang lễ cũng vậy, trọng bên phải hơn bên trái, vì tang lễ là việc hung. Luận giải Đa số các nhà hiệu đính đều cho rằng chương này chỉ có đoạn giữa – đoạn đặt trong dấu móc [ ] – từ “Binh giả bất tường chi khí” đến “tắc bất khả đắc chí ư thiên hạ hĩ” là lời “kinh”, lời Lão tử, ngoài ra toàn là lời chú thích cả, rõ ràng nhất là đoạn cuối có chữ Ngôn (ngôn dĩ tang lễ xử chi); Ngôn là “có ý nói rằng”, là lời giải thích. Lời kinh và lời chú thích xen lẫn nhau, cho nên ý nghĩa lộn xộn, đáng lẽ nên đưa đoạn giữa đó lên đầu, thì có lí hơn, nhưng các bản cũ đều chép như vậy, nên không sắp đặt lại nữa. Câu đầu, chữ Giai, Vương Niệm Tôn bảo nên đổi là Chuy隹 , mà chữ chuy tức là chữ Duy 唯, 惟; vả lại trong Đạo Đức kinh, có tám, chín chỗ dùng hai chữ Phù Duy 夫唯ở đầu câu như vậy. Để là giai binh thì có nghĩa là những binh khí tốt, sắc bén là vật bất tường. Trộm nghĩ, đã là binh khí thì dù tốt hay xấu đều là vật bất tường cả, cho nên hiểu theo Vương Niệm Tôn. Câu cuối, chữ Khấp 泣, có nhà cho là chữ Lị 蒞 (đến). THÁNH ĐỨC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử cho rằng: Đạo thể không tên mộc mạc, bậc Vương Hầu nên giữ vững lấy Đạo thể mà thực hành phép trị Vô Vi. ”Đạo sáng tạo vật rồi vạn vật mới có danh phận, khi đã có danh phận rồi thì nên biết ngừng lại; vì biết ngừng lại cho nên mới không nguy.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 道 常 無 名 , 樸 , 雖 小 , 天 下 莫 能 臣 也 . 王 侯 若 能 守 之 , 萬 物 將 自 賓 . 天 地 相 合 , 以 降 甘 露 , 民 莫 之 令 而 自 均 . 始 制 有 名 , 名 亦 既 有, 夫 亦 將 知 止 . 知 所 止 所 以 不 殆 . 譬 道 之 在 天 下 , 猶 川 谷 之 與 江 海 . Dịch Hán Việt Đạo thường vô danh, phác,tuy tiểu, thiên hạ mạc năng thần dã. Vương hầu nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự tân. Thiên địa tương hợp, dĩ giáng cam lộ, dân mạc chi linh nhi tự quân. Thủy chế hữu danh, danh diệc kí hữu, phù diệc tương tri chỉ. Tri sở chỉ khả dĩ bất đãi. Thí đạo chi tại thiên hạ, do xuyên cố chi dữ giang hải. Dịch nghĩa Đạo vĩnh viễn không có tên, chất phác, tuy ẩn vi mà thiên hạ không ai coi thường nó được [coi nó như bề tôi được]. Các bậc vương hầu biết giữ nó, thì vạn vật sẽ tự động qui phục. Trời đất hòa hợp với nhau cho móc ngọt rơi xuống, nhân dân không ra lệnh cho móc ngọt mà tự nó điều hòa. Đạo sáng tạo vật rồi vạn vật mới có danh phận, khi đã có danh phận rồi thì nên biết ngừng lại; vì biết ngừng lại cho nên mới không nguy. Đạo đối với thiên hạ cũng giống như sông biển đối với suối khe. Luận giải Câu đầu còn hai cách chấm nữa: 1- Đạo thường vô danh phác; 2- Đạo thường vô danh, phác tuy tiểu. Cách 1 không ổn vì cho “vô danh phác” đi liền thì không ứng với “thủy chế hữu danh” ở dưới; mà ý cũng không xuôi. Cách 2 không ổn vì nếu không ngắt ở sau chữ phác thì phải dịch là cái chất phác của đạo tuy nhỏ: vô nghĩa. Câu “dân mạc chi linh nhi tự quân” có người dịch là dân không ai khiến mà tự họ [dân] cùng đều. Câu áp chót có ý khuyên nhà cầm quyền khi đã đặt ra danh phận cho các quan để phân biệt rồi thì đừng bày thêm việc, để lầm lạc vì danh, mà nên trở về với mộc mạc tự nhiên. Câu cuối chúng có thể hiểu là sông biển là nơi qui tụ của suối khe, cũng như đạo là nơi qui tụ của thiên hạ. Có người hiểu khác: suối khe, sông biển làm lợi, gia ân cho mọi người thì đạo cũng vậy; hiểu như vậy thì phải dịch là: đạo ở trong thiên hạ cũng như suối khe, sông biển. Đại ý cả chương không có gì mới: vẫn là khuyên nhà cầm quyền phải thuận tự nhiên, vô vi, chất phác. BIỆN ĐỨC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử Biện thật rõ ràng và sâu sắc về Đức. Thật gần gũi và dễ hiểu. “Kẻ Tri túc (biết thế nào là đủ) là người giàu; kẻ mạnh mẽ (hoặc gắng sức) làm là người có Chí. “ ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 知 人 者 智 , 自 知 者 明 . 勝 人 者 力 , 自 勝 者 强 . 知 足 者 富 , 强 行 者 有 志 . 不 失 其 所 者 久 , 死 而 不 亡 者 壽 . Dịch Hán Việt Tri nhân giả trí, tự tri giả minh. Thắng nhân giả lực, tự thắng giả cường. Tri túc giả phú, cường (hoặc cưỡng) hành giả hữu chí. Bất thất kì sở giả cửu, tử nhi bất vong giả thọ. Dịch nghĩa Kẻ biết người là người khôn, kẻ tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Kẻ Tri túc (biết thế nào là đủ) là người giàu; kẻ mạnh mẽ (hoặc gắng sức) làm là người có Chí. Không rời nơi chốn của mình (tức đạo) thì được lâu dài; chết mà không mất (đạo) là trường thọ. Luận giải Câu cuối: không mất Đạo có nghĩa là mình hòa đồng với đạo thì cùng với Đạo trường tồn. Các đạo gia đời sau hiểu lầm câu đó nên tìm thuốc trường sinh và thực hành lối tu tiên. NHIỆM THÀNH - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này Lão Tử luận sâu hơn về Đạo, vô vi. “Vạn vật nhờ nó mà sinh trưởng mà nó không can thiệp vào, công thành rồi mà không nhận là của mình; nó nuôi dưỡng vạn vật mà không làm chủ vạn vật. “ ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 大 道 氾 兮, 其 可 左 右 . 萬 物 恃 之 而 生 而 不 辭 , 功 成 而 不 有 , 衣 養 萬 物 而 不 主 . 常 無 欲 , 可 名 於 小 ; 萬 物 歸 焉 而 不 主 , 可 名 爲 大 . 以 其 終 不 自 爲 大 , 故 能 成 其 大 . Dịch Hán Việt Đại đạo phiếm hề, kì khả tả hữu. Vạn vật thị chi nhi sinh nhi bất từ, công thành nhi bất hữu, y dưỡng vạn vật nhi bất chủ. Thường vô dục, khả danh ư tiểu; vạn vật qui yên nhi bất chủ, khả danh vi đại. Dĩ kì chung bất tự vi đại, cố năng thành kì đại. Dịch nghĩa Đạo lớn lan tràn khắp có thể qua bên trái, qua bên phải. Vạn vật nhờ nó mà sinh trưởng mà nó không can thiệp vào, công thành rồi mà không nhận là của mình; nó nuôi dưỡng vạn vật mà không làm chủ vạn vật. Nó vĩnh viễn là “không”, vô vi, cho nên có thể bảo nó là ẩn vi, (vô hình); muôn vật qui về nó mà nó không làm chủ, cho nên có thể bảo nó là lớn. Vì cho tới cùng, nó không tự nhận nó là lớn cho nên mới hoàn thành được cái vĩ đại của nó. Luận giải Câu nhì: “Vạn vật thị chi sinh nhi bất từ”, y như câu “vạn vật tác yên nhi bất từ”. Ở chữ Từ đó có người dịch là từ chối. Câu thứ ba: “Khả danh ư tiểu”, chữ Tiểu, nghĩa cũng như chữ Tiểu trong “tuy tiểu, thiên hạ mạc năng thần dã”. Ở đây nói về cái thể của Đạo rất “ẩn vi”; còn chữ Đại ở dưới, nói về cái dụng của Đạo rất lớn. Chương này chỉ diễn lại những ý đã nói rồi, không thêm ý gì mới. NHÂN ĐỨC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử luận về Đạo và Đức: “Đạo không hấp dẫn người ta như âm nhạc, mĩ vị, thể của nó nhạt nhẽo, vô thanh vô hình, nhưng dụng của nó vô cùng.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 執 大 象 , 天 下 往 . 往 而 不 害 , 安 平 太 . 樂 與 餌 , 過 客 止 . 道 之 出 口, 淡 乎 其 無 味 , 視 之 不 足 見 , 聽 之 不 足 聞 , 用 之 不 足 既 . Dịch Hán Việt Chấp đại tượng, thiên hạ vãng. Vãng nhi bất hại, an bình thái. Nhạc dữ nhị, quá khách chỉ. Đạo chi xuất khẩu, đạm hồ kì vô vị, thị chi bất túc kiến, thính chi bất túc văn, dụng chi bất túc kí. Dịch nghĩa (Bậc vua chúa) giữ đạo lớn thì thiên hạ tới qui phục; qui phục mà không hại, được an lạc thái bình. Âm nhạc với mĩ vị làm cho khách qua đường ngừng lại; còn Đạo mà nói ra thì nó nhạt nhẽo, vô vị; nhìn kĩ nó không thấy, lắng nghe cũng không thấy, nhưng dùng nó thì không bao giờ hết. Luận giải Câu đầu: “đại tượng”, chữ Tượng đó như chữ Tượng trong “kì trung hữu tượng”: ở trong (đạo) có hình tượng. Có nhà dịch là: Ai nắm được cái hình tượng lớn (cái trực giác về đạo) thì có thể đi khắp thiên hạ mà không nguy, vì ở đâu cũng thấy cảnh an lạc, thái bình. Câu thứ ba: “đạo chi xuất khẩu”, có người dịch là “đạo hiển hiện ra”. Đại ý chương này là Đạo không hấp dẫn người ta như âm nhạc, mĩ vị, thể của nó nhạt nhẽo, vô thanh vô hình, nhưng dụng của nó vô cùng. VI MINH - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này Lão Tử bàn về “thuật” – Vi Minh. Phá vỡ trá thuật “Vi Minh” – thâm u sáng tỏ - của kẻ âm mưu và khuyên kẻ chăn dân noi theo Đạo. “Làm việc như không làm, náu hình ẩn bóng.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 將 欲 歙 之 , 必 固 張 之 . 將 欲 弱 之, 必 固 强 之 . 將 欲 廢 之 , 必 固 舉 之 . 將 欲 奪 之 , 必 固 與 之 . 是 謂 微 明 . 柔 弱 勝 剛 强 . 魚 不 可 脫 於 淵 , 國 之 利 器 不 可 以 示 人 . Dịch Hán Việt Tương dục hấp chi, tất cố trương chi. Tương dục nhược chi, tất cố cường chi. Tương dục phế chi, tất cố cử chi. Tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi. Thị vị vi minh. Nhu nhược thắng cương cường. Ngư bất khả thoát ư uyên; quốc chi lợi khí bất khả dĩ thị nhân. Dịch nghĩa Muốn cho vật gì thu rút lại thì tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. (Hiểu) như vậy là sâu kín mà sáng suốt. Vì nhu nhược thắng được cương cường. Cá không nên rời khỏi vực. Lợi khí của nước không nên khoe cho dân thấy. Luận giải Đoạn trên dễ hiểu. Luật tạo hóa là “vật cực tắc phản”; hễ mạnh rồi thì sẽ yếu, yếu rồi thì sẽ mạnh; thịnh rồi tới suy, suy rồi sẽ thịnh. Mà nhu nhược thắng cương cường là chủ trương của Lão tử. Có người cho như vậy là Lão tử khuyên người cầm quyền dùng âm mưu, trá thuật như các chính trị gia thời Chiến Quốc: chẳng hạn như Tấn Hiến Công muốn đánh nước Ngu, mới đầu đem tặng vua Ngu ngọc bích và ngựa; Hàn Khang tử đem đất dâng Trí Bá để Trí Bá hóa kiêu, đòi đất của Ngụy; các nước khác thấy Trí Bá quá tham, liên kết nhau diệt Trí Bá… Ta nghĩ Lão tử ghét xảo trá, theo vô vi, đâu lại khuyên người ta dùng âm mưu; ông chỉ muốn phá thuật của bọn âm mưu và dặn chúng nên cẩn thận coi chừng đấy thôi. Nhưng đoạn sau thì có phần khó hiểu, chúng ta không thấy liên lạc với đoạn trên ra sao. Mà “lợi khí” là cái gì? Có người bảo là khí giới sắc bén; có người là dịch là “tài lợi”, là chủ quyền của quốc gia; có người lại giảng: “thánh nhân là đồ dùng ích nước lợi dân” nên ẩn náu như cá ở trong vực; như vậy không liên lạc gì với đoạn trên cả. Sau cùng có người cho “quyền mưu” là lợi khí của nhà cầm quyền, không nên để cho người ta thấy; ý này trái với chủ trương của Lão. Hay là đoạn cuối đó, nên tách ra, đưa vào một chương khác chăng; mà hiểu như sau: Cá ra khỏi vực thì chết, những tài lợi trong nước không nên khoe khoang, cứ sống trong bóng tối thì mới an thân được? VI CHÍNH - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử bàn về “Chính” thật tường tận. Sửa trị thiên hạ nên noi theo “Đạo thường không làm mà không cái gì là Nó không làm”. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 道 常 無 爲 而 無 不 爲 , 侯 王 若 能 守 之 , 萬 物 將 自 化 . 化 而 欲 作 , 吾 將 鎭 之 以 無 名 之 樸 . ( 無 名 之 樸 ) . 夫 亦 將 無 欲 . 不 欲 以 靜 , 天 下 將 自 定 . Dịch Hán Việt Đạo thường vô vi nhi vô bất vi, hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự hóa. Hóa nhi dục tác, ngô tương trấn chi dĩ vô danh chi phác. (Vô danh chi phác). Phù diệc tương vô dục. Bất dục dĩ tĩnh, thiên hạ tương tự định. Dịch nghĩa Đạo vĩnh cửu thì không làm gì (vô vi - vì là tự nhiên) mà không gì không làm (vô bất vi - vì vạn vật nhờ nó mà sinh, mà lớn); bậc vua chúa giữ được đạo thì vạn vật sẽ tự biến hóa (sinh, lớn). Trong quá trình biến hóa, tư dục của chúng phát ra thì ta dùng cái mộc mạc vô danh (tức bản chất của đạo) mà trấn áp hiện tượng đó, khiến cho vạn vật không còn tư dục nữa. Không còn tư dục mà trầm tĩnh thì thiên hạ sẽ tự ổn định. Luận giải Bốn chữ “vô danh chi phác” đặt trong dấu ngoặc, các nhà hiệu đính cho là Lặp lại, Dư. Trong phần này Lão Tử luận giải thật thâm thúy. Muốn thành Đức lớn trước hết cần biết tu Thân ngộ Đạo “chi phác”. Phần trước nói về VI MINH, phần này nhấn mạnh chữ CHÍNH.
LUẬN ĐỨC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Chương này quan trọng, Lão Tử nói về sự suy vi của Đạo Đức tới chính sách hữu vi, dùng trí xảo. Bàn về Đức: luân lý xã hội ngày một xuống dần, từ Đạo Đức đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín… Nếu ông được thấy phái Pháp gia thì chắc ông còn chê hơn nữa và sau “thất nghĩa nhi hậu lễ” tất đã thêm: “thất lễ nhi hậu pháp”. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 上 德 不 德 , 是 以 有 德 ; 下 德 不 失 德 , 是 以 無 德 . 上 德 無 爲 而 無 以 爲 ; 下 德 無 爲 而 有 以 爲 . 上 仁 爲 之 而 無 以 爲 ; 上 義 爲 之 而 有 以 爲 . 上 禮 爲 之 而 莫 之 應 , 則 攘 臂 而 扔 之 . 故 失 道 而 後 德 , 失 德 而 後 仁 , 失 仁 而 後 義 , 失 義 而 後 禮 . 夫 禮 者, 忠 信 之 薄 , 而 亂 之 首 . 前 識 者 道 之 華 , 而 愚 之 始 . 是 以 大 丈 夫 處 其 厚 , 不 居 其 薄 , 處 其 實 , 不 居 其 華 . 故 去 彼 取 此 . Dịch Hán Việt Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức; hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức. Thượng đức vô vi nhi vô dĩ vi; hạ đức vô vi nhi hữu dĩ vi. Thượng nhân vi chi nhi vô dĩ vi; thượng nghĩa vi chi nhi hữu dĩ vi. Thượng lễ vi chi nhi mạc chi ứng, tắc nhương tí nhi nhưng chi. Cố thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi hậu lễ. Phù lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ. Tiền thức giả đạo chi hoa, nhi ngu chi thủy. Thị dĩ đại trượng phu xử kì hậu, bất cư kì bạc, xử kì thực, bất cư kì hoa. Cố khứ bỉ thủ thử. Dịch nghĩa Người có đức cao thì [thuận theo tự nhiên] không có ý cầu đức, cho nên có đức; người có đức thấp thì có ý cầu đức, cho nên không có đức. Người có đức cao thì vô vi [không làm] mà không có ý làm [nghĩa là không cố ý vội vì cứ thuận theo tự nhiên]; người có đức thấp cũng vô vi, mà có ý làm [nghĩa là cố ý vô vi]. Người có đức nhân cao thì [do lòng thành mà] làm điều nhân, chứ không có ý làm [không nhắm một mục đích gì]; người có lòng nghĩa cao thì làm điều nghĩa mà có ý làm [vì so sánh điều nên làm - điều nghĩa - với điều không nên làm]; người có đức lễ cao thì giữ lễ nghi, và nếu không được đáp lại thì đưa cánh tay ra kéo người ta bắt phải giữ lễ nghi như mình. Cho nên đạo mất rồi sau mới có đức (đức ở đây hiểu theo nghĩa nguyên lí của mỗi vật), đức mất rồi sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là biểu hiện sự suy vi của sự trung hậu thành tín, là đầu mối của sự hỗn loạn. Dùng trí tuệ để tính toán trước, thì [mất cái chất phác] chỉ là cái lòe loẹt [cái hoa] của đạo, mà là nguồn gốc của ngu muội. Cho nên bậc đại trượng phu [người hiểu đạo] giữ trung hậu thành tín mà không trọng lễ nghi, giữ đạo mà không dùng trí xảo, bỏ cái này mà giữ cái kia. Luận giải Câu đầu có người dịch là: đức mà cao là không có đức, bởi vậy mới có đức. Chữ đức thứ nhất và thứ ba là đức hiểu theo Lão tử; còn chữ đức thứ nhì hiểu theo Nho gia, trỏ nhân, nghĩa, lễ. Câu thứ hai, có sách chép là: “Thượng đức vô vi nhi vô bất vi; hạ đức vi chi nhi hữu bất vi”: người có đức cao thì không làm mà không gì không làm; người có đức thấp thì làm mà kết quả là có nhiều điều làm không được. Đoạn cuối, hai chữ “tiền thức” có người hiểu là bậc tiên tri, tiên giác. Chương này quan trọng, nói về sự suy vi của đạo đức tới chính sách hữu vi, dùng trí xảo. Lão tử chê chủ trương trọng nhân, nghĩa, lễ, trí của Khổng giáo. Nếu ông được thấy bọn pháp gia thì chắc ông còn chê hơn nữa và sau “thất nghĩa nhi hậu lễ” tất đã thêm: “thất lễ nhi hậu pháp”. PHÁP BẢN - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử luận thật sâu sắc về Pháp Bản, nêu những hình ảnh mang tính quy luật và triết lý thâm sâu: “Trời được đạo mà trong, Đất được đạo mà yên, Thần được đạo mà linh, khe ngòi được đạo mà đầy, vạn vật được Đạo mà sinh, Vua chúa được Đạo mà làm chuẩn tắc cho thiên hạ.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 昔 之 得 一 者: 天 得 一 以 清 , 地 得 一 以 寧 , 神 得 一 以 靈 , 谷 得 一 以 盈 , 萬物 得 一 以 生 , 侯 王 得 一 以 爲 天 下 貞 . 其 致 之 . 天 無 以 清 將 恐 裂 , 地 無 以 寧 將 恐 廢 , 神 無 以 靈 將 恐 歇 , 谷 無 以 盈 將 恐 竭 , 萬 物 無 以 生 將 恐 滅 , 侯 王 無 以 貴 高 將 恐 蹶 . 故 貴 以 賤 爲 本 , 高 以 下 爲 基 . 是 以 侯 王 自 謂 孤 , 寡 , 不 穀 . 此 非 以 賤 爲 本 邪 ? 非 歟 ? 故 至 譽 無 譽 , 不 欲 琭 琭 如 玉 , 珞 珞 如 石 . Dịch Hán Việt Tích chi đắc nhất giả: thiên đắc nhất dĩ thanh, địa đắc nhất dĩ ninh, thần đắc nhất dĩ linh, cốc đắc nhất dĩ doanh, vạn vật đắc nhất dĩ sinh, hầu vương đắc nhất dĩ vi thiên hạ trinh. Kì trí chi. Thiên vô dĩ thanh tương khủng liệt, địa vô dĩ ninh tương khủng phế, thần vô dĩ linh tương khủng yết, cốc vô dĩ doanh tương khủng kiệt, vạn vật vô dĩ sinh tương khủng diệt, hầu vương vô dĩ quí cao tương khủng quyết. Cố quí dĩ tiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ. Thị dĩ hầu vương tự vị cô, quả, bất cốc. Thử phi dĩ tiện vi bản dả? Phi dư? Cố trí dự vô dự, bất dục lục lục như ngọc, lạc lạc như thạch. Dịch nghĩa Đây là những vật xưa kia được Đạo: trời được đạo mà trong, đất được đạo mà yên, thần được đạo mà linh, khe ngòi được đạo mà đầy, vạn vật được đạo mà sinh, vua chúa được đạo mà làm chuẩn tắc cho thiên hạ. Những cái đó đều nhờ đạo mà được vậy. Nếu trời không trong thì sẽ vỡ, đất không yên thì sẽ lở, thần không linh sẽ tan mất, khe ngòi không đầy thì sẽ cạn, vạn vật không sinh thì sẽ diệt, vua chúa không cao quí thì sẽ mất ngôi. Sang lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền. Cho nên vua chúa mới tự xưng là “côi cút” (cô), “ít đức” (quả), “không tốt” (bất cốc) [đều là những lời khiêm tốn]. Như vậy, chẳng phải là lấy hèn làm gốc đấy ư? Không phải vậy chăng? Cho nên không được khen tức là được lời khen cao quí nhất. Không muốn được quí như ngọc, bị khi như sỏi. Luận giải Chữ Nhất (một) trong câu đầu cũng là chữ Nhất trong: “thánh nhân bão nhất”, trỏ Đạo. Ba chữ “kì trí chi” ở cuối đoạn đầu, có người ngỡ là lời chú thích của người sau. Hai chữ “bất cốc” trong đoạn cuối, có người dịch là “không đáng ăn”. Từ Hải không có nghĩa đó. Câu cuối, hai chữ “lục lục”, và 2 chữ “lạc lạc” có người hiểu là đẹp đẽ, hoặc ít; và xấu xí hoặc nhiều. Đại khái cũng là cái nghĩa đáng quí, đáng khinh. Câu đó có người dịch là: Không muốn được quí như ngọc mà muốn bị khinh như sỏi, lấy lẽ rằng như vậy hợp với ý: “sang lấy hèn làm gốc” ở trên. Dịch như chúng ta thì có nghĩa là không muốn được người ta khen mà cũng không bị người ta chê. KHỨ DỤNG - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử cho rằng cái Dụng có tính Khứ. “Đạo với cái động tức là cái Dụng từ Có trở về Không để rồi lại sinh ra Có, huyền diệu vô cùng.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 反 者 道 之 動 , 弱 者 道 之 用 . 天 下 萬 物 生 於 有, 有 生 於 無 . Dịch Hán Việt Phản giả đạo chi động, nhược giả đạo chi dụng. Thiên địa vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô. Dịch nghĩa Luật vận hành của Đạo là trở lại lúc đầu [trở lại gốc], diệu dụng của đạo là khiêm nhu. Vạn vật trong thiên hạ từ “có” mà sinh ra; “có” lại từ “không” mà sinh ra. Luận giải Phần này Lão Tử luận về Đạo mang tính triết lý thâm sâu. Triết học hiện đại có cách tiếp cận khác nhưng cũng có nhiều điểm tương đồng. ĐỒNG DỊ - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử cho rằng: Đạo không dễ làm, dễ biết. Bậc Thượng Sỹ nghe Đạo liền hiểu biết và lập tức thi hành. “Cao học nghe Đạo, chuyên tâm luyện tập. Trung học nghe Đạo, lúc quên lúc nhớ. Tiểu học nghe Đạo, hô hố cả cười.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 上 士 聞 道 , 勤 而 行 之 ; 中 士 聞 道 , 若 存 若 亡 ; 下 士 聞 道 , 大 笑 之 . 不 笑 , 不 足 以 爲 道 . 故 建 言 有 之 : 明 道 若 昧 , 進 道 若 退 , 夷 道 若 纇 ; 上 德 若 谷 , 大 白 若 辱 , 廣 德 若 不 足 , 建 德 若 偷 , 質 德 若 渝 . 大 方 無 隅 , 大 器 晚 成 , 大 音 希 聲 ; 大 象 無 形 , 道 隱 無 名. 夫 唯 道 , 善 貸 且 成 . Dịch Hán Việt Thượng sĩ văn đạo, cần nhi hành chi; trung sĩ văn đạo, nhược tồn nhược vong; hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vi đạo. Cố kiến ngôn hữu chi: minh đạo nhược muội,tiến đạo nhược thối, di đạo nhược loại; thượng đức nhược cốc, đại bạch nhược nhục, quảng đức nhược bất túc, kiến đức nhược thâu; chất đức nhược du. Đại phương vô ngung, đại khí vãn thành, đại âm hi thanh; đại tượng vô hình, đạo ẩn vô danh. Phù duy đạo, thiện thải thả thành. Dịch nghĩa Bậc thượng sĩ (sáng suốt) nghe đạo (hiểu được) thì gắng sức thi hành; kẻ tầm thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ; kẻ tối tăm nghe đạo (cho là hoang đường) thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa. Cho nên sách xưa có nói: đạo sáng thì dường như tối tăm, đạo tiến thì dường như thụt lùi, đạo bằng phẳng dễ dàng thì dường như khúc mắc; đức cao thì dường như thấp trũng; cao khiết thì dường như nhục nhã (hoặc thật trong trắng thì dường như nhơ bẩn), đức rộng lớn thì dường như không đủ, đức mạnh mẽ thì dường như biếng nhác, đức chất phác thì dường như không hư (có người dịch là hay thay đổi). Hình vuông cực lớn thì không có góc (nói về không gian, nó không có góc vì không biết góc nó đâu); cái khí cụ cực lớn (đạo) thì không có hình trạng cố định; thanh âm cực lớn thì nghe không thấy, hình tượng cực lớn thì trông không thấy, đạo lớn thì ẩn vi, không thể giảng được (không gọi tên được). Chỉ có đạo là khéo sinh và tác thành vạn vật. Luận giải Đoạn cuối từ “đại phương vô ngung”, chúng ta hiểu là nói về Đạo. Bốn chữ “đại khí vãn thành”, hầu hết các học giả đều dịch là “cái khí cụ cực lớn thì muộn thành” - do đó mà cổ nhân thường dùng thành ngữ đó để diễn cái ý: người có tài lớn thường thành công muộn. Nhưng Trần Trụ đọc là: đại khí Miễn 免 thành và hiểu là cái khí cụ cực lớn (đạo) thì không (miễn nghĩa là không) có hình trạng cố định (thành); như vậy hợp với “đại phương vô ngung” ở trên, với “đại âm hi thanh”, “đại tượng vô hình” ở dưới, mà ý cả đoạn mới nhất quán. Chúng ta theo Trần Trụ nhưng vẫn chưa tin hẳn là đúng, vì nếu vậy thì “đại khí miễn thành” nghĩa không khác “đại tượng vô hình” là bao, ý như trùng. Vì vậy mà chúng ta phải dịch: “đại âm hi thanh” là thanh âm cực lớn thì không nghe thấy; “đại tượng vô hình” là hình tượng cực lớn thì không trông thấy. ngochai ĐẠO HÓA - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử khẳng định: Thể và Dụng của Đạo bao giờ cũng mềm yếu, mềm mại, uyển chuyển. Con người cần điều hòa với Đạo và chuyên giữ khí thật yếu mềm. “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sanh tam, tam sinh vạn vật.“ Câu trên là nguyên lý quan trọng mà Chu Dịch sử dụng trong luận thuyết của mình. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 道 生 一 , 一 生 二 , 二 生 三 , 三 生 萬 物 . 萬 物 負 陰 而 抱 陽 , 中 氣 以 爲 和 . 人 之 所 惡 , 唯 孤 , 寡 , 不 穀 . 而 王 公 以 爲 稱 . 故 , 物 或 損 之 而 益 , 或 益 之 而 損 . 人 之 所 敎 , 我 亦 敎 之 , 梁 强 者 不 得 其 死 , 吾 將 以 爲 敎 父 . Dịch Hán Việt Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sanh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão dương, trùng khí dĩ vi hòa. Nhân chi sở ố, duy “cô”, “quả”, “bất cốc”. Nhi vương công dĩ vi xưng. Cố, vật hoặc tổn chi nhi ích, hoặc ích chi nhi tổn. Nhân chi sở giáo, ngã diệc giáo chi, lương cường giả bất đắc kì tử, ngô tương dĩ vi giáo phụ. Dịch nghĩa Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh vạn vật. Vạn vật đều cõng âm mà ôm dương, điều hòa bằng khí trùng hư. Điều mà, mọi người ghét là “côi cút”, “ít đức”, “không tốt”, vậy mà các vương công dùng những tiếng đó để tự xưng. Cho nên vật có khi bớt đi mà lại là thêm lên, có khi thêm lên mà hóa ra bớt đi. Có một lời mà người xưa dạy, nay tôi cũng dùng để dạy lại, là “cường bạo thì sẽ bất đắc kì tử”. Tôi cho lời đó là lời khuyên chủ yếu. Luận giải Câu đầu mỗi người hiểu một cách: - Đạo là “không”, “không” sinh ra “có”, vậy “một” đó là “có”; hoặc đạo là vô cực, vô cực sinh thái cực, “một” đó là thái cực. - Đạo là tổng nguyên lí, lí sinh khí, vậy một đó là khí. Hai thì ai cũng hiểu là âm và dương. Còn ba thì là một thứ khí do âm, dương giao nhau mà sinh ra chăng? Hay là cái nguyên lí nó làm cho âm, dương hòa với nhau? Có nhà chỉ dịch là “ba” thôi, không giảng gì cả. - Vũ Đồng bảo: một, hai, ba trỏ thứ tự. Đạo sinh ra cái thứ nhất là khí dương, khí dương đó sinh ra cái thứ hai là khí âm, khí âm này sinh ra khí thứ ba là trùng hư để điều hòa âm, dương. - Vạn vật cõng âm mà ôm dương nên hiểu là quay lưng lại với âm mà hướng về dương, vì dương chủ sinh, âm chủ sát? Hay chỉ nên hiểu là vạn vật đều có phần âm và phần dương? Đoạn thứ hai: có khi bớt đi mà lại là thêm lên, tức như trường hợp các vương công khiêm tốn tự xưng là “côi cút”, “ít đức”, “không tốt” mà lại được tôn trọng thêm. Đoạn cuối, câu “lương cường giả bất đắc kì tử”, các nhà chú giải bảo là lời khuyên khắc lên lưng người bằng đồng (kim nhân) đời Chu. Chúng ta nên để ý: cả cuốn Đạo Đức Kinh chỉ có chương này là nói về âm, dương. BIẾN DỤNG - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử luận rằng: lấy mềm yếu thắng cứng rắn; lấy không chế ngự có; dạy bảo không dùng lời; Vô vi thuận theo lẽ tự nhiên. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 天 下 之 至 柔 馳 騁 天 下 之 至 堅 . 無 有 入 無 間 . 吾 是 以 知 無 爲 之 有 益 . 不 言 之 敎 , 無 爲 之 益 , 天 下 希 及 之 . Dịch Hán Việt Thiên hạ chi chí nhu trì sính thiên hạ chi chí kiên. Vô hữu nhập vô gian. Ngô thị dĩ tri vô vi chi hữu ích. Bất ngôn chi giáo, vô vi chi ích, thiên hạ hi cập chi. Dịch nghĩa Trong thiên hạ, cái cực mềm thì chế ngự được cái cực cứng như nước xói mòn được đá; cái “không có” lại len vô được không có kẽ hở (như không khí len vô được những chất đá, gỗ cứng mà trông bề ngoài ta không thấy kẽ hở). Do đó mà tôi biết “vô vi” là có ích. Dạy mà không dùng lời, cái ích lợi của vô vi, người đời ít ai hiểu kịp. Luận giải Ích 益 ở đây là có Ích cho trăm họ, do bớt của dư ở trên để bù cái thiếu hụt ở dưới mà tái lập thế quân bình trong xã hội. Đó là vận hành tự nhiên như gió dồn về chỗ trống. Nên nói “không làm mà có ích”-Vô vi hữu ích. LẬP GIỚI - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử luận triết lý thâm sâu: con người nên trọng tính mệnh, chân thân, khinh thường danh lợi, biết đủ, biết dừng. Danh tiếng với bản thân, Cái nào thân hơn ta? Được với mất, Cái nào khổ nhục hơn? ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 名 與 身 孰 親 ? 身 與 貨 孰 多? 得 與 亡 孰 病 ? 是 故 甚 愛 必 大 費 , 多 藏 必 厚 亡 . 知 足 不 辱 , 知 止 不 殆 , 可 以 長 久 . Dịch Hán Việt Danh dữ thân thục thân? Thân dữ hóa thục đa? Đắc dữ vong thục bệnh? Thị cố thậm ái tất đại phí, đa tàng tất hậu vong. Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi, khả dĩ trường cửu. Dịch nghĩa Danh tiếng với sinh mệnh cái nào quí? Sinh mệnh với của cải cái nào quan trọng? Được danh lợi mà mất sinh mệnh, cái nào hại? Cho nên ham danh quá thì phải hao tổn nhiều, chứa của cải nhiều thì mất mát nhiều. Biết thế nào là đủ (tri túc) thì không nhục, biết lúc nào nên ngừng thì không nguy mà có thể sống lâu được. Luận giải Chương này khuyên chúng ta “khinh vật quí sinh” như Dương Chu. Tri túc là thái độ chung của đa số các triết gia Trung Hoa, có thể nói của dân tộc Trung Hoa nữa. Nó là điều kiện cốt yếu của hạnh phúc. Chúng ta nhớ những châm ngôn: "Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc?" (Biết thế nào là đủ thì sẽ thấy đủ, đợi cho có đủ thì bao giờ mới đủ) “Nhân dục vô nhai, hồi đầu thị ngạn” (Lòng dục của con người không có bờ bến, nhưng nếu nhìn lại phía sau mình thì đó là bờ bến đấy). HỒNG ĐỨC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử luận về Đạo: trạng thái của Đạo hư không, lặng yên trong trẻo, ở giữa thống nhiếp, bao trùm muôn ngàn thực thể để thu về cái một đơn thuần. Đầy đủ mà dường như trống rỗng, Nhưng dùng mãi không hết. Rất thẳng, mà như cong, Rất hay, mà như dở. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 大 成 若 缺 , 其 用 不 弊 ; 大 盈 若 沖 , 其 用 不 窮 ; 大 直 若 屈 , 大 巧 若 拙 , 大 辯 若 訥 . 靜 勝 躁 , 寒 勝 熱 , 清 靜 爲 天 下 正 . Dịch Hán Việt Đại thành nhược khuyết, kì dụng bất tệ; đại doanh nhược xung, kì dụng bất cùng; đại trực nhược khuất, đại xảo nhược chuyết, đại biện nhược nột. Tĩnh thắng táo, hàn thắng nhiệt, thanh tĩnh vi thiên hạ chính. Dịch nghĩa Cái gì hoàn toàn thì dường như khiếm khuyết mà công dụng lại không bao giờ hết; cái gì cực đầy thì dường như hư không mà công dụng lại vô cùng; cực thẳng thì dường như cong, cực khéo thì dường như vụng, ăn nói cực khéo thì dường như ấp úng. Tĩnh thắng động, lạnh thắng nóng, thanh tĩnh (Vô vi) là chuẩn tắc trong thiên hạ. Luận giải Đoạn trên, Vương Bật giảng rằng Đạo tùy vật mà tạo thành, cứ tự nhiên, không cố ý, không vì riêng một vật nào, cho nên tựa như khiếm khuyết, hư không… mà công dụng thì vô cùng. Đoạn dưới, nguyên tác chép là: “Táo thắng hàn, tĩnh thắng nhiệt”: động thì thắng lạnh, tĩnh thì thắng nóng; đó là luật tự nhiên; mùa đông lạnh, ta cử động cho nóng lên, mùa hè nóng, ta ngồi yên cho bớt nóng. Nhưng bản ý của Lão tử có lẽ ở trong sáu chữ: “thanh tĩnh vi thiên hạ chính”, khuyên chúng ta nên thanh tĩnh Vô vi, cho nên sửa lại là “tĩnh thắng táo, hàn thắng nhiệt” thì hợp hơn. Hàn là lạnh, mà thanh cũng có nghĩa là mát. Vả lại tĩnh và táo, hàn với nhiệt mới tương phản với nhau. Tĩnh và hàn là vô vi, táo và nhiệt là hữu vi; vô vi thắng hữu vi. KIỆM DỤC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử luận về “tri túc”: biết thể nào là đủ đầy. Bệnh “không biết tự đủ” gây nên lỗi lầm, họa hại thảm khốc vô cùng. Mong thắng, muốn được Không hại nào bằng. Nên biết tri túc, Tự bằng lòng thì thường đủ. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 天 下 有 道 , 卻 走 馬 以 糞 ; 天 下 無 道 , 戎 馬 生 於 郊 . 禍 莫 大 於 不 知 足 , 咎 莫 大 於 欲 得 . 故 知 足 之 足 , 常 足 矣 . Dịch Hán Việt Thiên hạ hữu đạo, khước tẩu mã dĩ phẩn; thiên hạ vô đạo, nhung mã sinh ư giao. Họa mạc đại ư bất tri túc, cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ. Dịch nghĩa Thiên hạ có đạo (các nước không gây chiến với nhau) thì ngựa tốt không dùng vào chiến tranh mà dùng vào việc cày cấy; thiên hạ vô đạo thì ngựa dùng vào chiến tranh và ngựa mẹ sinh con ở chiến trường (mà không sinh ở nhà). (Do đó mà xét thì) họa không gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại không gì bằng tham muốn cho được nhiều (đi chiếm nước ngoài) cho nên biết thế nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì mới luôn luôn đủ. Luận giải Dục vọng của con người là nguồn gốc của Tham. Vì tham mà tranh đua, tranh dành chinh phạt lẫn nhau, đấu đá bon chen để tranh lợi. Những điều đó chỉ mang đến đau thương cho con người, mang họa đến cho người mà cũng mang họa đến cho mình. Do vậy, cần hiểu được lẽ “tri túc” để sống hòa thuận, thuận với bản chân, với lẽ trời. GIÁM VIỄN - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử khẳng định rằng, khi đã thông được Đạo, thông được huyền cơ của tạo hóa đất trời thì có thể biết được mọi sự việc trong thiên hạ. “Không ra cửa biết khắp thiên hạ, Không ra ngó trời, thấy rõ đạo trời.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 不 出 戶 , 知 天 下 , 不 窺 牖 , 見 天 道 . 其 出 彌 遠 , 其 知 彌 少 . 是 以 聖 人 不 行 而 知 , 不 見 而 名 , 無 爲 而 成 . Dịch Hán Việt Bất xuất hộ, tri thiên hạ, bất khuy dũ, kiến thiên đạo. Kì xuất di viễn, kì tri di thiểu. Thị dĩ thánh nhân bất hành nhi tri; bất kiến nhi danh; bất vi nhi thành. Dịch nghĩa Không ra khỏi cửa mà biết được (sự lý trong) thiên hạ; không dòm ra ngoài cửa mà biết được đạo trời. Càng đi xa càng biết được ít. Cho nên thánh nhân không đi mà biết, không nhìn mà thấy rõ, không làm mà nên. Luận giải Đại ý là dùng Tâm Thần (trực giác) thì mới lĩnh hội được tổng nguyên lí, chứ đừng dùng tai mắt mà tìm hiểu từng vật một thì chỉ thêm mê hoặc
VONG TRI - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử luận về Đạo và Học: Giữ được thiên hạ là nhờ vô vi. Hữu vi cố làm bao nhiêu cũng không đủ. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 爲 學 日 益 , 爲 道 日 損 . 損 之 又 損 , 以 至 於 無 爲 . 無 爲 而 無 不 爲 . 取 天 下 常 以 無 事 , 及 其 有 事 , 不 足 以 取 天 下 . Dịch Hán Việt Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi. Vô vi nhi vô bất vi. Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự, cập kì hữu sự, bất túc dĩ thủ thiên hạ. Dịch nghĩa Theo học (hiểu theo nghĩa thường)) thì mỗi ngày (dục vọng và tinh thần hữu vi) một tăng; theo đạo thì mỗi ngày (dục vọng và tinh thần hữu vi) một giảm. Giảm rồi lại giảm cho tới mức vô vi, không làm. Không làm mà không gì là không làm. Trị thiên hạ thì nên vô vi, còn như hữu vi thì không trị được thiên hạ. Luận giải Trên đường học Đạo, bước đầu tục học phải ngày một tăng tiến, nhưng bước sau học Đạo phải từ bỏ tục học để ngày một giảm bớt, cho đến không còn gì, tiến tới cảnh giới vô vi-hư không. NHIỆM ĐỨC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này Lão Tử luận về Đức-Đức của thánh nhân: thánh nhân không có lòng Thường, lấy lòng của trăm họ làm lòng của mình, và coi trăm họ như con của mình. “Lòng thánh nhân Tâm phi thường Đối với người tốt, ta lành. Đôi với người không tốt, ta vẫn lành. Đối với kẻ thật đáng tin, ta tin. Đối với kẻ không thực, ta vẫn thực.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 聖 人 無 常 心 , 以 百 姓 心 爲 心 . 善 者 吾 善 之 , 不 善 者 吾 亦 善 之 , 德 善 . 信 者 吾 信 之 , 不 信 者 吾 亦 信 之 , 德 信 . 聖 人 在 天 下 , 歙 歙 焉 , 爲 天 下 , 渾 其 心 . 百 姓 皆 注 其 耳 目 , 聖 人 皆 孩 之. Dịch Hán Việt Thánh nhân vô thường tâm, dĩ bách tính tâm vi tâm. Thiện giả ngô thiện chi, bất thiện giả ngô diệc thiện chi, đức thiện. Tín giả ngô tín chi, bất tín giả ngô diệc tín chi, đức tín. Thánh nhân tại thiên hạ, hấp hấp yên, vi thiên hạ, hồn kì tâm. Bách tính giai chú kì nhĩ mục, thánh nhân giai hài chi. Dịch nghĩa Thánh nhân không có thành kiến, lấy lòng thiên hạ làm lòng mình. Thánh nhân tốt với người tốt, tốt cả với những người không tốt, nhờ vậy mà mọi người đều hoá ra tốt; tin người đáng tin mà tin cả người không đáng tin, nhờ vậy mà mọi người đều hoá ra đáng tin. Thánh nhân ở trong thiên hạ thì vô tư vô dục, trị thiên hạ thì để lòng mình hồn nhiên. Trăm họ đều chăm chú nghe nhìn thánh nhân, thánh nhân đều coi họ như con trẻ. Luận giải Chữ Đức trong Đức thiện, Đức tín, nên hiểu là Đắc 得 (được) vì hai chữ đó đọc giống nhau. Có người dịch “đức thiện”, “đức tín” là: như vậy thánh nhân có lòng tốt, có đức tín. Đoạn dưới rất khó hiểu. Hai chữ “Hấp Hấp” nếu dịch là thu rút như ở chương trước thì không xuôi. Cho nên nhiều nhà bỏ không dịch, có nhà dịch là: (thánh nhân làm cho thiên hạ) sợ, sợ nên co rút lại chăng? Chúng ta gượng dịch theo Dư Bồi Lâm là “vô tư vô dục”. Câu cuối: “bách tính giai chú kì nhĩ mục”, có người hiểu là trăm họ chăm chú nhìn, lắng tai nghe thánh nhân, như si như ngốc. QUÝ SINH - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Đối với con người, Sinh mệnh rất đáng Quý, vậy phải biết Quý Sinh. Lão Tử luận thâm thúy làm sao: “xuất sinh nhập tử”. “Ra khỏi cuộc sống là vào cõi chết. Ôi! Sao lạ thế! Vì còn chỗ nào chết được đâu.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 出 生 入 死. 生 之 徒 十 有 三 , 死 之 徒 十 有 三 , 人 之 生 , 動 之 死 地 , 亦 十 有 三 . 夫 何 故 ? 以 其 生 生 之 厚 . 蓋 聞 善 攝 生 者 , 陸 行 不 遇 兕 虎 , 入 軍 不 被 兵 甲. 兕 無 所 投 其 角 , 虎 無 所 措 其 爪 , 兵 無 所 容 其 刃 . 夫 何 故 ? 以 其 無 死地 . Dịch Hán Việt Xuất sinh nhập tử. Sinh chi đồ thập hữu tam, tử chi đồ thập hữu tam, nhân chi sinh, động chi tử địa, diệc thập hữu tam. Phù hà cố? Dĩ kì sinh sinh chi hậu. Cái văn thiện nhiếp sinh giả, lục hành bất ngộ huỷ hổ, nhập quân bất bị binh giáp. Huỷ vô sở đầu kì giác, hổ vô sở thố kì trảo; binh vô sở dung kì nhẫn. Phù hà cố? Dĩ kì vô tử địa. Dịch nghĩa Ra (đời) gọi là sống, vào (đất) gọi là chết, cứ 10 người ra đời thì 3 người bẩm sinh được sống lâu, 3 người bẩm sinh chết yểu, 3 người có thể sống lâu được nhưng chết sớm (vì không biết dưỡng sinh). Như vậy là vì đâu? Vì họ (hạng thứ ba) tự phụng dưỡng quá hậu (hưởng thụ thái quá). Tôi từng nghe nói người khéo dưỡng sinh thì đi đường không gặp con Tê Ngưu, con Hổ, ở trong quân đội thì không bị thương vì binh khí. Con Tê Ngưu không dùng sừng húc, con Hổ không dùng móng vồ, binh khí không đâm người đó được. Tại sao vậy? Tại người đó (khéo dưỡng sinh) không tiến vào tử địa. Luận giải Chương này xét về phép dưỡng sinh, ý nghĩa có chỗ rất tối, gây ra rất nhiều cách giải thích. Bốn chữ đầu: “Xuất sinh nhập tử”, có thể hiểu là: sinh thì gọi là ra, chết thì gọi là vô; hoặc ra đời gọi là sống, vô đất gọi là chết; hoặc: từ đạo mà ra gọi là sống, vào (trở về) đạo gọi là chết; hoặc con người ra vào chỗ sinh tử… Năm chữ cuối: “dĩ kì vô tử địa”, có thể hiểu là “tại không có chỗ chết”, hoặc “không tới chỗ chết”, “không vô chỗ chết”, “tự mình không gây ra cái chết cho mình”… Hai chỗ đó, hiểu cách nào thì đại ý cũng không khác nhau bao nhiêu. Chỉ có câu thứ nhì: “Sinh chi đồ thập hữu tam… động chi tử địa” là có nhiều cách hiểu khác hẳn nhau, vì ba chữ “thập hữu tam”. Chúng ta đã thấy trên mười cách dịch, có thể chia làm ba nhóm: - Nhóm thứ nhất, ít nhất, đại biểu là Max Kaltenmark. Không hiểu Kaltenmark căn cứ vào bản nào mà hiểu là: “Một phần mười là sống, một phần mười là chết”. Nguyên văn bản đó là “thập hữu nhất” chăng? - Nhóm thứ nhì, khá đông, hiểu “thập hữu tam” là 13. Và giảng: có 13 đường sống, có 13 đường chết, hoặc 13 đồ đệ của sự sống, 13 đồ đệ của sự chết. Có nhà bảo con số 13 đó trỏ tứ chi (2 chân, hai tay) và chín lỗ (tai, mắt, mũi, miệng… trên thân thể); có nhà lại bảo là 13 nguyên nhân của đạo sống: hư, vô, thanh, tĩnh, nhu, nhược, từ, kiệm, bất cảm vi thiên hạ tiên, tri túc, tri chỉ, bất dục đắc, vô vi, toàn là những đức đề cao trong Đạo Đức kinh. (Nếu nguyên văn là nhị thập tam thì chúng ta có thể kiếm thêm 10 đức nữa cho đủ số, chẳng hạn: phác, thuận tự nhiên, khí trí, khứ xa, vô dục…). - Nhóm thứ ba, đông hơn hết, cho chữ “hữu” 有 (trong thập hữu tam) nghĩa như chữ “chi” 之 và hiểu là: 10 người thì có 3. Tóm lại phép dưỡng sinh là đừng tự phụng dưỡng quá hậu, đừng ham vật dục mà phải điềm đạm, sống hợp với tự nhiên. DƯỠNG ĐỨC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử luận về cách thức dưỡng Đức: Đạo và Đức vô cùng vĩ đại, “không làm mà làm”, chỉ “tự nhiên nhi nhiên”. “Đạo sinh đó, Đức sinh đó, Chúng sinh thành hình. Cho nên, vật nào không quý Đức trọng Đạo. Đạo sinh đó, Đức dưỡng đó, Giúp vạn vật lớn lên, Bảo bọc đó, che chở đó. Đấy là Huyền Đức. Sâu kín, nhiệm mầu.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 道 生 之 , 德 畜 之 , 物 形 之 , 勢 成 之 . 是 以 萬 物 莫 不 尊 道 而 貴 德 . 道 之 尊 , 德 之 貴, 夫 莫 之 命 而 常 自 然 . 故 道 生 之 , 德 畜 之 , 長 之 , 育 之 , 亭 之 , 毒 之 , 養 之 , 覆 之 . 生 而 不 有 , 爲 而 不 恃 , 長 而 不 宰 . 是 謂 玄 德 . Dịch Hán Việt Đạo sinh chi, đức súc chi, vật hình chi, thế thành chi. Thị dĩ vạn vật mạc bất tôn đạo nhi quí đức. Đạo chi tôn, đức chi quí, phù mạc chi mệnh nhi thường tự nhiên. Cố đạo sinh chi, đức súc chi, truởng chi, dục chi, đình chi, độc chi, dưỡng chi, phú chi. Sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị; trưởng nhi bất tể. Thị vị huyền đức. Dịch nghĩa Đạo sinh ra vạn vật (vì là tổng nguyên lí), Đức bao bọc mỗi vật (vì là nguyên lí của mỗi vật), vật chất khiến cho mỗi vật hình thành, hoàn cảnh (khí hậu, thuỷ thổ…) hoàn thành mỗi vật. Vì vậy mà vạn vật đều tôn sùng Đạo và quí Đức. Đạo sở dĩ được tôn sùng, Đức sở dĩ được quí là vì đạo và đức không can thiệp, chi phối vạn vật mà để vạn vật tự nhiên phát triển. Đạo sinh ra vạn vật, Đức bao bọc, bồi dưỡng, nuôi lớn tới thành thục che chở vạn vật. Tuy sinh dưỡng vạn vật mà không chiếm cho mình, làm mà không cậy công, để cho vạn vật tự lớn lên mà mình không làm chủ, như vậy là đức Huyền Diệu. Luận giải Theo Hà Thượng Công, chữ “đình” tức là chữ “thành” 成, chữ “độc” tức là chữ “thục” 熟 vì âm như nhau, dùng thay nhau. Đạo và Đức-dưới một góc độ nào đó, cũng như Thể và Dụng trong triết lý của Dịch vậy. Thật uyển chuyển và biến hóa cùng với vạn vật trong tự nhiên. QUY NGUYÊN - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử cho rằng, con người không nên bỏ Đạo-không nên bỏ gốc. Khi đã nắm được “gốc” thì sẽ thông được “ngọn”. Đây cũng là một bài học căn bản trong cuộc sống: không nên “tham bát bỏ mâm”, "thấy lợi quên nghĩa", không nên tham lam "phú gia phì thân" mà "nhũng Quốc", cần nhận biết đâu là gốc rễ cội nguồn của vấn đề. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 天 下 有 始 , 以 爲 天 下 母 . 既 得 其 母 , 以 知 其 子, 既 知 其 子, 復 守 其 母 , 沒 身 不 殆 . 塞 其 兌 , 閉 其 門 , 終 身 不 勤 . 開 其 兌 , 濟 其 事 , 終 身 不 救 . 見 小 曰 明 , 守 柔 曰 强 . 用 其 光 , 復 歸 其 明 , 無 遺 身 殃 . 是 爲 習 常 . Dịch Hán Việt Thiên hạ hữu thuỷ, dĩ vi thiên hạ mẫu. Kí đắc kì mẫu, dĩ tri kì tử, kí tri kì tử, phúc thủ kì mẫu, một thân bất đãi. Tắc kì đoài, bế kì môn, chung thân bất cần. Khai kì đoài, tế kì sự, chung thân bất cứu. Kiến tiểu viết minh; thủ nhu viết cường. Dụng kì quang, phục qui kì minh, vô di thân ương. Thị vi tập thường. Dịch nghĩa Vạn vật có nguồn gốc (Đạo), nguồn gốc đó là mẹ của vạn vật. Nắm được mẹ (hiểu được Đạo) là biết con (vạn vật); đã biết được con mà lại giữ được mẹ thì suốt đời không nguy. Ngăn hết các lối (tai, mắt, mũi, miệng), đóng hết các cửa (tức đừng để cho cảm quan gây dục vọng, cứ giữ lòng hư tĩnh) thì suốt đời không lo lắng; mở các đường lối, giúp cho dục vọng phát sinh, thì suốt đời không cứu được. Thấy cái ẩn vi (Đạo) thì gọi là sáng, giữ được nhu nhược (Đạo) thì gọi là mạnh. Dùng được ánh sáng (tức biết được vạn vật, được con) mà phục hồi được sự sáng (tức giữ được mẹ, được đạo) thì không bị tai hoạ. Như vậy là theo được đạo vĩnh cửu. Luận giải Chữ “tập” 習 ở đây dùng thay chữ “tập” 襲. Nên so sánh chương này với chương Quy Căn: đều là khuyên đừng dùng trí thông minh, phải bỏ dục vọng đi để trở về hưu tĩnh, về tự nhiên, đề đạo. ÍCH CHÚNG - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này Lão Tử luận Đạo và có liên quan tới vấn đề chính trị-xã hội. Tuy vậy, cách thức trình bầy và tính triết lý không phù hợp với Đạo Vô vi, e rằng phần này có thể do người đời sau thêm vào. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 使 我 介 然 有 知 , 行 於 大 道 , 惟 施 是 畏 . 大 道 甚 夷 而 民 好 徑 . 朝 甚 除 , 田 甚 蕪 , 倉 甚 虚 ; 服 文 綵 , 帶 利 劍 , 厭 飮 食 , 財 貨 有 餘 , 是 謂 盗 夸 , 非 道 也 哉 ! Dịch Hán Việt Sử ngã giới nhiên hữu tri, hành ư đại đạo, duy thi thị uý. Đại đạo thậm di nhi dân hiếu kính. Triều thậm trừ, điền thậm vu, sương thậm hư; phục văn thái, đái lợi kiếm, yếm ẩm thực, tài hoá hữu dư, thị vị đạo khoa, phi đạo dã tai! Dịch nghĩa Nếu ta hốt nhiên hiểu biết thì ta đi theo con đường lớn, chỉ sợ con đường tà. Đường lớn thật bằng phẳng, mà ta lại thích con đường nhỏ quanh co. Triều đình thật ô uế, đồng ruộng thật hoang vu, kho lẫm thật trống rỗng; mà họ bận áo gấm thêu, đeo kiếm sắc, ăn uống chán mứa, của cải thừa thãi. Như vậy là trộm cướp chứ đâu phải là hợp đạo! Luận giải Câu đầu: “giới nhiên” có người hiểu là “một chút”, lại có người hiểu là “vững vàng”. – Chữ “thi” tức là chữ 迆 đọc là “di” (hay đà), nghĩa là “tà”. Đoạn sau, chữ “trừ”, có người hiểu là lộng lẫy, sạch sẽ. Chữ “khoa” có người hiểu là khoe khoang, nói láo. Vương Tiên Thận cho như vậy là vô nghĩa; nên đổi là “vu” 竽 (ống sáo). Trong một cuộc hoà tấu, tiếng sáo nổi lên rồi các tiếng khác hoạ theo; như vậy “đạo vu” là kẻ cầm đầu đạo tặc. Giọng chương này gay gắt không kém giọng Mặc tử khi Mặc chê các vua chúa là đại bất nghĩa, đáng trăm tội chết, và giọng của Mạnh tử khi Mạnh mắng những ông vua để cho loài thú ăn thịt dân (vì nuôi ngựa cho mập để cho dân đói), nên chúng ta ngờ rằng không phải lời Lão tử mà của người đời sau viết. TU QUAN - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt “Lấy Đạo mà tu thân thì Đức sẽ đầy đủ; lấy đạo mà lo việc nhà thì đức sẽ có dư; lấy đạo mà lo việc làng xóm thì đức sẽ lớn ra; lấy đạo mà lo việc nước thì đức sẽ thịnh; lấy đạo mà lo việc thiên hạ thì đức sẽ phổ cập.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 善 建 者 不 抜 , 善 抱 者 不 脫 . 子 孫 以 祭 祀 不 輟 . 修 之 於 身 , 其 德 乃 眞 ; 修 之 於 家 , 其 德 乃 餘 ; 修 之 於 鄕 , 其 德 乃 長 ; 修 之 於 邦 , 其 德 乃 豊 ; 修 之 於 天 下 , 其 德 乃 普 . 故 以 身 觀 身 , 以 家 觀 家 , 以 鄕 觀 鄕 , 以 邦 觀 邦 , 以 天 下 觀 天 下 . 吾 何 以 知 天 下 然 哉 ? 以 此 . Dịch Hán Việt Thiện kiến giả bất bạt, thiện bão giả bất thoát. Tử tôn dĩ tế tự bất chuyết. Tu chi ư thân, kì đức nãi chân; tu chi ư gia, kì đức nãi dư; tu chi ư hương, kì đức nãi trường; tu chi ư bang, kì đức nãi phong; tu chi ư thiên hạ, kì đức nãi phổ. Cố dĩ thân quan thân, dĩ gia quan gia, dĩ hương quan hương, dĩ bang quan bang, dĩ thiên hạ quan thiên hạ. Ngô hà dĩ tri thiên hạ nhiên tai? Dĩ thử. Dịch nghĩa Khéo dựng thì không thể nhổ lên được, khéo ôm thì không thoát ra được, con cháu mà khéo dựng, khéo ôm thì việc tế tự (tôn miếu, xã tắc) sẽ đời đời không dứt. Lấy Đạo mà tu thân thì Đức sẽ đầy đủ; lấy đạo mà lo việc nhà thì đức sẽ có dư; lấy đạo mà lo việc làng xóm thì đức sẽ lớn ra; lấy đạo mà lo việc nước thì đức sẽ thịnh; lấy đạo mà lo việc thiên hạ thì đức sẽ phổ cập. Lấy thân mình mà xét thân người, nhà mình mà xét nhà người, làng mình mà xét làng khác, nước mình mà xét nước khác, thiên hạ ngày nay mà xét thiên hạ thời xưa và thời sau. Làm sao ta biết được thiên hạ thế này hay thế khác? Là do lẽ đó. Luận giải Câu đầu: dựng và ôm là nói dựng Đạo, ôm Đức ở trong lòng, nên mới không nhổ được, không tuột ra được; còn dựng ôm những cái khác như dựng cột, ôm đồ vật thì đều có thể nhổ được, tuột ra được. Việc tế tự không dứt là xã tắc, tôn miếu còn hoài. Chữ “bang” trong đoạn thứ nhì là chép theo nguyên bản. Đời Hán, kiêng tên Lưu Bang mới đổi bang ra quốc; nên phục hồi lại nguyên bản. Chương này ngờ là của người đời sau viết, chịu ảnh hưởng ít nhiều của Khổng giáo, cho nên mới nói đến việc tế tự, nhất là mới có chủ trương gần như “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. HUYỀN PHÚ - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này Lão Tử bàn về tính “hòa” – Vô vi, nhấn mạnh thiên tính của con người - bản thể của Đạo. Hình ảnh ẩn dụ của “con đỏ” là hình ảnh rất hay: vừa mang tính khái quát triết lý, vừa gần gũi dễ hiểu một cách giản dị. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 含 德 之 厚, 比 於 赤 子. 毒 蟲 不 螫 , 猛 獸 不 據 , 攫 鳥 不 搏 . 骨 弱 , 筋 柔 而 握 固 , 未 知 牝 牡 之 合 而 朘 作 , 精 之 至 也 . 終 日 號 而 不 嗄 , 和 之 至 也 . 知 和 曰 常 , 知 常 曰 明 . 益 生 曰 祥. 心 使 氣 曰 强 . 物 壯 則 老 , 是 謂 不 道 , 不 道 早 已 . Dịch Hán Việt Hàm đức chi hậu, tỉ ư xích tử. Độc trùng bất thích, mãnh thú bất cứ, quắc điểu bất bác. Cốt nhược, cân nhu nhi ác cố, vị tri tẫn mẫu chi hợp nhi tôi tác tinh chi chí dã. Chung nhật hào nhi bất sá, hoà chi chí dã. Tri hoà viết thường, tri thường viết minh. Ích sinh viết tường. Tâm sử khí viết cường. Vật tráng tắc lão, thị vị bất đạo, bất đạo tảo dĩ. Dịch nghĩa Người nào có Đức dày thì như con đỏ. Độc trùng không chích, mãnh hổ không vồ, ác điểu không quắp. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, chưa biết giao hợp mà con cu dựng đứng, như vậy là tinh khí sung túc. Suốt ngày gào hét mà giọng không khản, như vậy là khí cực hoà. Biết “hoà” thì gọi là bất biến (thường), biết bất biến thì gọi là “sáng”. Túng dục tham sinh thì gọi là hoạ. Để cho lòng (dục) sai khiến cái “khí” thì gọi là “cường”. Vật nào cường tráng thì sẽ già, như vậy là không hợp Đạo, không hợp Đạo thì sớm chết. Luận giải Chương này có nhiều bản khác nhau, ghi lại đủ rườm, chỉ xin đưa hai thí dụ: chữ “tường” trong “ích sinh viết tường” có bản chép là (tường) nghĩa là bất tường tai hoạ; bản chúng ta dùng chép là 祥 mà cũng giảng là tai hoạ, vì chữ đó thời xưa trỏ cả phúc lẫn hoạ và ở đây nên hiểu là hoạ; chữ “sá” 嗄 có bản chép là “á” 啞, nghĩa là câm, mất tiếng, cũng như khản tiếng. Câu: “tâm sử khí viết tường”, chữ “khí” này cũng là chữ “khí” trong “chuyên khí trí nhu” chương Năng Vi; còn chữ “cường” tức là chữ “cường” trong “nhu nhước thắng cường”, nghĩa xấu là cứng; chứ không phải chữ “cường” trong “thủ nhu viết cường” có nghĩa tốt là mạnh. Nên so sánh hai câu đầu với chương Quý Sinh. Câu cuối đã có trong chương Kiệm Vũ. Các triết gia thời xưa lấy sự hồn nhiên, vô tư, vô dục của đứa trẻ mới sanh là mức tối cao của sự tu dưỡng. Lão tử trong chương Năng Vi, chương Phản Phác đã diễn ý đó, đây lại nhắc lại. Mạnh tử cũng bảo: “Bậc đại nhân không đánh mất cái lòng của đứa con đỏ” (bất thất kì xích tử chi tâm).
HUYỀN ĐỨC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Đạo-Đức thật rộng lớn bao la, so với nó thì những quý tiện, giầu sang-nghèo hèn, thọ yểu, thân sơ… chỉ là hư ảo. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 知 者 不 言 , 言 者 不 知 . 塞 其 兌 , 閉 其 門 , 挫 其 銳 , 解 其 紛 , 和 其 光 , 同 其 塵 . 是 謂 玄 同 . 故 不 可 得 而 親 ; 不 可 得 而 疏 ; 不 可 得 而 利 ; 不 可 得 而 害; 不 可 得 而 貴 ; 不 可 得 而 賤 . 故 爲 天 下 貴 . Dịch Hán Việt Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri. Tắc kì đoài, bế kì môn, toả kì nhuệ, giải kì phân, hoà kì quang, đồng kì trần. Thị vị huyền đồng. Cố bất khả đắc nhi thân; bất khả đắc nhi sơ; bất khả đắc nhi lợi; bất khả đắc nhi hại; bất khả đắc nhi quí; bất khả đắc nhi tiện. Cố vi thiên hạ quí. Dịch nghĩa Người nào biết (đạo) thì không nói (về đạo), người nào nói thì không biết. Ngăn hết các lối, đóng hết các cửa (chương Quy Nguyên), không để lộ sự tinh nhuệ ra, gỡ những rối loạn, che bớt ánh sáng, hoà với trần tục, như vậy gọi là “huyền đồng” (hoà đồng với vạn vật một cách hoàn toàn). (Đạt tới cảnh giới đó thì) không ai thân, cũng không có ai sơ với mình được (vì mình đã ngăn hết các lối, đóng hết các cửa, bỏ dục vọng, giữ lòng hư tĩnh); không ai làm cho mình được lợi hay bị hại (vì mình không để lộ sự tinh nhuệ, gỡ những rối loạn, giữ sự giản phác); không ai làm cho mình cao quí hay đê tiện được (vì mình đã che bớt ánh sáng, hoà đồng với trần tục). Vì vậy mà tôn quí nhất trong thiên hạ. Luận giải Đạo đạt tới cảnh giới Vô vi thì đã “thoát tục” rồi. Cảnh giới đó thật Huyền diệu thay. Phải chăng đây là cảnh giới mà nhiều Tôn giáo lớn trên thế giới đã đề cập tới. Tuy nhiên, cần hiểu đúng ý Lão Tử nêu ra, nhiều người lầm tưởng đó là con đường "cực đoan" nên cho rằng Lão Tử đề xướng một phương pháp không thực tế. Họ hiểu không đúng, vì đã quên mất triết lý "vô vi" luôn tiềm ẩn trong Đạo-đã vô vi thì làm sao có chỗ cho sự "cực đoan" "thái quá" tồn tại. THUẦN PHONG - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt ”Dùng chính trị mà trị nước, dùng thuật kì mà tác chiến, (nhưng cả hai cách đó đều không thích hợp), chỉ vô sự mới được thiên hạ.” Tại sao lại được như vậy? Làm sao để đạt được cảnh giới đó? ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 以 正 治 國 , 以 奇 用 兵 , 以 無 事 取 天 下 . 吾 何 以 知 其 然 哉 ? 以 此 : 天 下 多 忌 諱 而 民 彌 貧 ; 朝 多 利 器 , 國 家 滋 昏 ; 人 多 伎 巧 , 奇 物 滋 起 ; 法 令 滋 彰 , 盜 賊 多 有 . 故 聖 人 云 : 我 無 爲 而 民 自 化 , 我 好 靜 而 民 自 正 , 我 無 事 而 民 自 富, 我 無 欲 而 民 自 樸 . Dịch Hán Việt Dĩ chính trị quốc, dĩ kì dụng binh, dĩ vô sự thủ thiên hạ. Ngô hà dĩ tri kì nhiên tai? Dĩ thử: Thiên hạ đa kị huý nhi dân di bần; triều đa lợi khí, quốc gia tư hôn; nhân đa kĩ xảo, kì vật tư khởi; pháp lệnh tư chương, đạo tặc đa hữu. Cố thánh nhân vân: ngã vô vi nhi dân tự hoá, ngã hiếu tĩnh nhi dân tự chính, ngã vô sự nhi dân tự phú; ngã vô dục nhi dân tự phác. Dịch nghĩa Dùng chính trị mà trị nước, dùng thuật kì mà tác chiến, (nhưng cả hai cách đó đều không thích hợp), chỉ vô sự mới được thiên hạ. Do đâu mà biết được như vậy? Do lẽ này: Thiên hạ mà có nhiều lệnh cấm thì nước càng nghèo (vì làm thì sợ mắc tội này tội khác); triều đình càng nhiều “lợi khí” (tức quyền mưu?) thì quốc gia càng hỗn loạn; người trên càng nhiều kĩ xảo thì việc bậy càng sinh ra nhiều; pháp lệnh càng nghiêm khắc thì đạo tặc càng nổi. Cho nên thánh nhân bảo: ta không làm gì (vô vi) mà dân tự cải hoá, ta ưa thanh tĩnh mà dân tự nhiên thuần chính, ta không ban giáo lệnh mà dân tự phú túc, ta vô dục mà dân tự hoá ra chất phác. Luận giải Phần này Lão Tử luận giải sâu sắc về Vô Vi và nâng lên tầm của việc “trị quốc, bình thiên hạ”. Chương này nêu lên những kiến giải và gợi ý sâu sắc cho người đời trong cách thức "đối nhân xử thế" và cao hơn nữa là "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". THUẬN HÓA - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Họa Phúc khôn lường, Lão Tử nhấn mạnh thật rõ ràng. Con người ta làm sao để hiểu thấu lý lẽ này đây? “Hoạ là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ nấp của hoạ, ai biết được cứu cánh ra sao? “ ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 其 政 悶 悶 , 其 民 醇 醇 ; 其 政 察 察 , 其 民 缺 缺 . 禍 兮 福 之 所 倚 , 福 兮 禍 之 所 伏 . 孰 知 其 極 ? 其 無 正 . 正 復 爲 奇 , 善 復 爲 妖 . 人 之 迷 , 其 日 故 久 . 是 以 聖 人 方 而 不 割 , 廉 而 不 劌 , 直 而 不 肆 , 光 而 不 耀 . Dịch Hán Việt Kì chính muộn muộn, kì dân thuần thuần; kì chính sát sát, kì dân khuyết khuyết. Hoạ hề phúc chi sở ỷ, phúc hề hoạ chi sở phục. Thục tri kì cực? Kì vô chính. Chính phục vi kì, thiện phục vi yêu. Nhân chi mê, kì nhật cố cửu. Thị dĩ thánh nhân phương nhi bất cát, liêm nhi bất quế, trực nhi bất tứ, quang nhi bất diệu. Dịch nghĩa Chính lệnh mập mờ (khoan hồng) thì dân thuần hậu; chính lệnh rõ ràng (hình pháp nghiêm minh quá) thì dân kiêu bạc. Hoạ là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ nấp của hoạ, ai biết được cứu cánh ra sao? Hoạ phúc không có gì nhất định. Chính có thể biến thành tà, thiện có thể biến thành ác. Loài người mê hoặc (không hiểu được lẽ đó) đã từ lâu rồi. Chỉ có bậc thánh nhân (biết được lẽ hoạ phúc vô định đó), nên tuy chính trực mà không làm thương tổn người, tuy có cạnh gốc mà không hại người, tuy cương trực mà không phóng túng, xúc phạm người, tuy sáng rỡ mà không chói loà. Luận giải Chương này – tiếp theo chương trên, cũng khuyên trị dân nên vô vi – có nhiều bản khác nhau một số chữ, và có vài chỗ khó hiểu, nên mỗi nhà giảng một khác. Như ba chữ “kì vô chính” ở đoạn giữa, có người hiểu là “nếu người trị nước không thẳng thắn”, hoặc “thiên hạ không có gì là chính, mẫu mực cả”. Chúng tôi theo Dư Bồi Lâm, cho chữ Kì đó trỏ hoạ, phúc và Chính có nghĩa là nhất định, như vậy ba chữ đó có thể coi là lời giải thích hoặc lời kết của hai câu trên, mà nghĩa mới nhất quán: hoạ phúc vô định, mà chính tà, thiện ác cũng vô định nữa. Ngoài ra, có nhà đề nghị nên đem cả đoạn cuối đặt lên trên, sau bốn chữ “kì dân khuyết khuyết”. THỦ ĐẠO - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử cho rằng: hữu vi là đi ngược lại với thể Đạo. “Có tiết kiệm thì mới sớm phục tòng Đạo; sớm phục tòng đạo thì tích được nhiều Đức.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 治 人 , 事 天 莫 若 嗇 . 夫 唯 嗇 , 是 以 早 服 , 早 服 , 謂 之 重 積 德 ; 重 積 德 則 無 不 克 , 無 不 克 則 莫知 其 極 ; 莫 知 其 極 , 可 以 有 國 ; 有 國 之 母 , 可 以 長 久 , 是 謂 深 根 固 柢 , 長 生 久 視 之 道 . Dịch Hán Việt Trị nhân, sự thiên mạc nhược sắc. Phù duy sắc, thị dĩ tảo phục, tảo phục vị chi trọng tích đức; Trọng tích đức tắc vô bất khắc, vô bất khắc, tắc mạc tri kì cực; Mạc tri kì cực, khả dĩ hữu quốc; Hữu quốc chi mẫu, khả dĩ trường cửu, thị vị thâm căn cố đế, trường sinh cửu thị chi đạo. Dịch nghĩa Trị dân và Tu thân thì không gì bằng tiết kiệm (tinh thần, trí óc). Có tiết kiệm thì mới sớm phục tòng Đạo; sớm phục tòng đạo thì tích được nhiều Đức; tích được nhiều đức thì không gì không khắc phục được; không gì không khắc phục thì năng lực của mình không biết tới đâu là cùng; năng lực không biết tới đâu là cùng thì trị được nước; nắm được cái gốc (mẹ) của đạo trị nước, thì có thể tồn tại được lâu dài. Như vậy là rễ sâu, gốc vững, (nắm được) cái đạo trường tồn. Luận giải Câu đầu, hai chữ “sự thiên”, đa số học giả dịch là “thờ trời”, hay “giúp trời”, lấy nghĩa rằng trị dân tức là giúp trời. Nhưng như vậy, có màu sắc Khổng, Mặc. Dư Bồi Lâm hiểu theo lời giải thích trong thiên Giải Lão, sách Hàn Phi Tử: “Thông minh tuấn tú, thiên dã; động tịnh tư lự, nhân dã” (thông minh, tuấn tú là do trời; động tĩnh, suy tư là do người) mà cho Thiên (trời) đây trỏ bản năng thiên phú của con người, và Sự Thiên tức là luyện, giúp phần bản năng đó, là tu thân. Và chương này nói về việc tu thân, trị quốc chứ không nói gì đến trời cả, như vậy hợp với tư tưởng Lạo tử hơn. Câu cuối, chữ Thị trong “trường sinh cửu thị”, theo Từ Nguyên, có nghĩa là hoạt 活 (sống); vậy “trường sinh cửu thị” cũng tức như “tử nhi bất vong” trong "tử nhi bất vong giả thọ". Đại ý chương này vẫn là theo Đạo tự nhiên, Hữu vi ít chừng nào tốt chừng ấy. CƯ VỊ - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này luận thật hay với hình ảnh ví von rất sinh động, giản dị và dễ hiểu. “Trị nước lớn cũng như nấu nướng cá nhỏ (nấu cá nhỏ mà lật lên lật xuống, động tới nó nhiều quá, nó sẽ nát; trị nước lớn mà chính lệnh phiền hà, pháp lệnh thay đổi nhiều quá, can thiệp vào việc dân nhiều quá, dân sẽ trá nguỵ, chống đối).” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 治 大 國 若 烹 小 鮮 . 以 道 蒞 天 下 , 其 鬼 不 神 . 非 其 鬼 不 神 , 其 神 不 傷 人 . 非 其 神 不 傷 人 , 聖 人 亦 不 傷 人 . 夫 兩 不 相 傷 , 故 德 交 歸 焉 . Dịch Hán Việt Trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên. Dĩ đạo lị thiên hạ, kì quỉ bất thần. Phi kì quỉ bất thần, kì thần bất thương nhân. Phi kì thần bất thương nhân, thánh nhân diệc bất thương nhân. Phù lưỡng bất tương thương, cố đức giao qui yên. Dịch nghĩa Trị nước lớn cũng như nấu nướng cá nhỏ (nấu cá nhỏ mà lật lên lật xuống, động tới nó nhiều quá, nó sẽ nát; trị nước lớn mà chính lệnh phiền hà, pháp lệnh thay đổi nhiều quá, can thiệp vào việc dân nhiều quá, dân sẽ trá nguỵ, chống đối). Dùng Đạo mà trị thiên hạ thì quỷ không linh; chẳng những quỉ không linh mà thần cũng không làm hại được người; chẳng những thần không hại được người mà thánh nhân cũng không làm hại người. Hai bên (một bên là quỉ, thần, thánh nhân, một bên là người) không làm hại nhau, cho nên Đức quý cả về dân (dân yên ổn làm ăn mà gắng sức sửa Đức). Luận giải Câu nhì, “kì quỉ bất thần”, Cao Hanh bảo chữ Thần đó chính là chữ (?) cũng đọc là Thần và nghĩa là Linh. Câu cuối, chữ Lưỡng, có nhà cho là trỏ thánh nhân (tức vua chúa giữ được đạo) và dân; “cố đức giao qui yên” có người hiểu là “đức của vua và của dân nối nhau về một chỗ”, lại có người dịch là cả hai, (vua và dân) đều có lợi. Chương này, cơ hồ trái với học thuyết Lão tử; Lão tử không tin có thượng đế, chỉ biết có Đạo, nguyên lí tối cao của vũ trụ thì dân lại tin có quỉ thần. Cho nên có người ngờ không phải là tư tưởng của Lão tử. Nhưng có người tin là của Lão tử vì ở đây ông bài bác thần quyền, không tin quỉ thần hại được người. KHIÊM ĐỨC - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Phần này luận về Đức và dụng chữ Khiêm dựa theo triết lý ÂM-DƯƠNG mà dùng hình ảnh giống Đực và giống Cái làm hình ảnh so sánh thật hay. ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 大 國 者 下 流 , 天 下 之 交 , 天 下 之 牝 . 牝 常 以 靜 勝 牡 , 以 靜 爲 下 . 故 大 國 以 下 小 國 則 取 小 國 ; 小 國 以 下 大 國 則 取 大 國 . 故 或 下 以 取 ; 或 下 而 取 . 大 國 不 過 欲 兼 畜 人 , 小 國 不 過 欲 入 事 人. 夫 兩 者 各 得 所 欲 , 大 者 宜 下 . Dịch Hán Việt Đại quốc giả hạ lưu, thiên hạ chi giao, thiên hạ chi tẫn. Tẫn thường dĩ tĩnh thắng mẫu, dĩ tĩnh vi hạ. Cố đại quốc dĩ hạ tiểu quốc tắc thủ tiểu quốc; tiểu quốc dĩ hạ đại quốc tắc thủ đại quốc. Cố hoặc hạ dĩ thủ; hoặc hạ nhi thủ. Đại quốc bất quá dục kiêm súc nhân; tiểu quốc bất quá dục nhập sự nhân. Phù lưỡng giả các đắc sở dục, đại giả nghi hạ. Dịch nghĩa Nước lớn nên ở chỗ thấp, chỗ qui tụ của thiên hạ, nên giống như giống Cái trong thiên hạ. Giống Cái nhờ tĩnh mà thắng giống Đực (ham động), lấy tĩnh làm chỗ thấp. Cho nên nước lớn mà khiêm hạ đối với nước nhỏ thì được nước nhỏ xưng thần; nước nhỏ mà khiêm hạ đối với nước lớn thì được nước lớn che chở. Như vậy là một bên khiêm hạ để được (nước nhỏ xưng thần), một bên khiêm hạ mà được (nước lớn che chở). Nước lớn chẳng qua chỉ muốn gồm nuôi nước nhỏ, nước nhỏ chẳng qua muốn thờ nước lớn. Khiêm hạ thì cả hai đều được như ý muốn; nhưng nước lớn phải khiêm hạ mới được. Luận giải Đại ý rất rõ ràng: cũng diễn tư tưởng khiêm nhu: “hậu kì thân nhi thân tiên”. Nhưng nhiều học giả ngờ người sau viết, vì viết vụng, chữ dùng không chính xác. VI ĐẠO - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Đạo chứa dụng vạn vật, không phải là hình thức hời hợt bên ngoài. “Lời nói hay có thể làm cho mình được tôn trọng, hành vi đẹp có thể làm cho mình hoá cao thượng.”ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 道 者 萬 物 之 奧, 善 人 之 寶, 不 善 人 之 所 保 . 美 言 可 以 示 尊 , 美 行 可 以 加 人 . 人 之 不 善, 何 棄 之 有? 故 立 天 子, 置 三 公, 雖 有 拱 璧 , 以 先 駟 馬, 不 如 坐 進 此 道. 古 之 所 以 貴 此 道 者 何 ? 不 曰: 求 以 得 , 有 罪 以 免 邪 ? 故 爲 天 下 貴. Dịch Hán Việt Đạo giả vạn vật chi áo, thiện nhân chi bảo, bất thiện nhân chi sở bảo. Mỹ ngôn khả dĩ thị tôn, mĩ hành khả dĩ gia nhân. Nhân chi bất thiện, hà khí chi hữu? Cố lập thiên tử, trí tam công, tuy hữu củng bích, dĩ tiên tứ mã, bất như toạ tiến thử đạo. Cổ chi sở dĩ quí thử đạo giả hà? Bất viết: Cầu dĩ đắc, hữu tội dĩ miễn da? Cố vi thiên hạ quí. Dịch nghĩa Đạo là chỗ ẩn náu của vạn vật (vì đạo dung nạp vạn vật), là vật quí của người tốt, chỗ nhờ cậy của người không tốt. Lời nói hay có thể làm cho mình được tôn trọng, hành vi đẹp có thể làm cho mình hoá cao thượng. Nhưng còn người không tốt (mà biết nhờ cậy Đạo) thì sao lại bỏ? Cho nên lập ngôi Thiên tử, đặt ngôi Tam công, dù (trong buổi lễ) hai tay bưng ngọc bích lớn đi trước xe tứ mã, cũng không bằng quì dâng Đạo đó lên. Người xưa sở dĩ quí Đạo là vì đâu? Chẳng phải là vì: (nhờ đạo mà) hễ cầu cái gì được cái nấy, có tội thì được tha ư? Vì vậy mà Đạo được thiên hạ quí. Luận giải Chương này toàn là lời tán dương Đạo, ý nghĩa tầm thường. Có lẽ do người đời sau thêm vào. Nên so sánh với các chương trước. ÂN THỦY - Lão Tử Đạo Đức Kinh Lời bạt Lão Tử đề cập đến triết lý nhân sinh trong cuộc sống thật hay, răn người đời thật chí lý: “Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ (vì) việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn trong thiên hạ khởi từ lúc còn nhỏ. Do đó thánh nhân trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn.” ngochai --------------------------------------------------------- Nguyên Văn Hán Tự 爲無爲, 事無事, 味無味. 大小多少, 報怨以徳. 圖難於其易, 爲大於其細. 天下難事必作於易, 天下大事必作於細. 是以聖人終不爲大, 故能成其大. 夫輕諾必寡信, 多易必多難. 是以聖人猶難之, 故終無難矣. Dịch Hán Việt Vi vô vi, sự vô sự, vị vô vị. Đại tiểu đa thiểu, báo oán dĩ đức. Đồ nan ư kì dị; vi đại ư kì tế. Thiên hạ nan sự tất tác ư dị, thiên hạ đại sự tất tác ư tế. Thị dĩ thánh nhân chung bất vi đại, cố năng thành kì đại. Phù khinh nặc tất quả tín, đa dị tất đa nan. Thị dĩ thánh nhân do nan chi, cố chung vô nan hĩ. Dịch nghĩa (Thánh nhân) trị (thiên hạ) theo chính sách vô vi, thi hành theo nguyên tắc vô sự, giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ như lớn, cái ít như nhiều, lấy Đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ (vì) việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn trong thiên hạ khởi từ lúc còn nhỏ. Do đó thánh nhân trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn. Người nào hứa một cách dễ dàng quá thì ít tin được, cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên thánh nhân coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặp gì khó. Luận giải Câu đầu nói về đạo: đạo thì vô vi, vô sự mà nhạt nhẽo, vô vị. “Vị vô vị” là nếm cái nhạt nhẽo vô vị (đạm hồ kì vô vị) tức là xử sự theo đạo. “Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ” cũng là theo Đạo, và chỉ người nào biết đạo mới nhận được ẩn vi; mới hiểu được cái lí: “mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi”. Nhờ vậy, thánh nhân không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn. Câu này, có người dịch: “thánh nhân không tự cho mình là vĩ đại nên mới thành vĩ đại”, như vậy e mất liên lạc với câu trên.
71. 丙加天乙为伏逆。 天乙加丙为飞悖。 Bính gia thiên ất vi mật nghịch。Thiên ất gia bính vi phi bội。 72. 庚加日干为伏干。 日干加庚飞於格。 Canh gia nhật can vi mật can。Nhật can gia canh phi ư cách。 73. 加一宫兮战於野。 同一宫兮战於国。 Gia nhất cung hề chiến ư dã。Đồng nhất cung hề chiến ư quốc。 74. 庚加值符天乙伏。 值符加庚天乙飞。 Canh gia trị phù thiên ất mật。Trị phù gia canh thiên ất phi。 75. 庚加癸兮为大格。 加己为刑最不宜。 Canh gia quý hề vi đại cách。Gia kỷ vi hình tối bất nghi。 76. 加壬之时为上格。 又嫌年月日时逢。 Gia nhâm chi thời vi thượng cách。Hựu hiềm niên nguyệt nhật thời phùng。 77. 更有一般奇格者。 六庚谨勿加三奇。 Canh hữu nhất bàn kì cách giả。Lục canh cẩn vật gia tam kì。 78. 此时若也行兵去。 匹马只轮无返期。 Thử thời nhược dã hành binh khứ。Thất mã chỉ sanh vô phản kỳ。 79. 六癸加丁蛇妖娇。 六丁加癸雀投江。 Lục quý gia đinh xà yêu kiều。Lục đinh gia quý tước đầu giang。 80. 六乙加辛龙逃走。 六辛加乙虎猖狂。 Lục ất gia tân long đào tẩu。Lục tân gia ất hổ xương cuồng。
1 Bát Thuần Kiền 2 Bát Thuần Khôn 3 Thủy Lôi Truân 4 Sơn Thủy Mông 5 Thủy Thiên Nhu 6 Sơn Thủy Tụng 7 Địa Thủy Sư 8 Thủy Địa Tỷ 9 PhongThiên Tiểu Súc 10 Thiên Trạch Lý 11 Địa Thiên Thái 12 Thiên Địa Bĩ 13 Thiên Hỏa Đồng Nhân 14 Hỏa Thiên Đại Hữu 15 Địa Sơn Khiêm 16 Lôi Địa Dự 17 Trạch Lôi Tùy 18 Sơn Phong Cổ 19 Địa Trạch Lâm 20 Phong Địa Quan 21 Hỏa Lôi Phệ Hạp 22 Sơn Hỏa Bí 23 Sơn Địa Bác 24 Địa Lôi Phục 25 Thiên Lôi Vô Vọng 26 Sơn Thiên Đại Súc 27 Sơn Lôi Di 28 TrạchPhong Đại Quá 29 Bát Thuần Khảm 30 Bát Thuần Ly 31 Trạch Sơn Hàm 32 Lôi Phong Hằng 33 Thiên Sơn Độn 34 Lôi Thiên Đại Tráng 35 Hỏa Địa Tấn 36 Địa Hỏa Minh Di 37 PhongHỏa Gia Nhân 38 Hỏa Trạch Khuê 39 Thủy Sơn Kiển 40 Lôi Thủy Giải 41 Sơn Trạch Tổn 42 Phong Lôi Ích 43 Trạch Thiên Quải 44 Thiên Phong Cấu 45 Trạch Địa Tụy 46 Địa Phong Thăng 47 Trạch Thủy Khốn 48 Thủy Phong Tỉnh 49 Trạch Hỏa Cách 50 Hỏa Phong Đỉnh 51 Bát Thuần Chấn 52 Bát Thuần Cấn 53 Phong Sơn Tiệm 54 Lôi Trạch Quy Muội 55 Lôi Hỏa Phong 56 Hỏa Sơn Lữ 57 Bát Thuần Tốn 58 Bát Thuần Đoài 59 Phong Thủy Hoán 60 Thủy Trạch Tiết 61 Phong Trạch Trung Phu 62 Lôi Sơn Tiểu Quá 63 Thủy Hỏa Ký Tế 64 Hỏa Thủy Vị Tế
Mặc dù đọc vô hơi khó hiểu nhưng vẫn ủng hộ anhhoa hết mình. Có công mài sắt có ng nên Kim, hy vọng anhhoa sớm ngộ ra bí kíp giúp đỡ ace. Cố lên!!!!
TÁM CUNG TƯỢNG HÀO 64 QUẺ I. CUNG CÀN có 8 quẻ đều thuộc Kim (nên học thuộc lòng) 1. CÀN VI THIÊN 2. THIÊN PHONG CẤU 3. THIÊN SƠN ĐỘN 4. THIÊN ĐỊA BỈ 5. PHONG ĐỊA QUAN 6. SƠN ĐỊA BÁC 7. HỎA ĐỊA TẤN 8. HỎA THIÊN ĐẠI HỮU CÀN VI THIÊN ▬▬▬Phụ Mẫu Tuất Thổ (Thế) ▬▬▬Huynh Đệ Thân Kim ▬▬▬Quan Quỷ Ngọ Hỏa ▬▬▬Phụ Mẫu Thìn Thổ (Ứng) ▬▬▬Thê Tài Dần Mộc ▬▬▬Tử Tôn Tý Thủy THIÊN PHONG CẤU ▬▬▬ Phụ Mẫu Tuât Thổ ▬▬▬ Huynh Đệ Thân Kim ▬▬▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa (Ứng) ▬▬▬ Huynh Đệ Dậu Kim ▬▬▬ Tử Tôn Hợi Thủy ▬ ▬ Phụ Mẫu Sữu Thổ (Thế) THIÊN SƠN ĐỘN ▬▬▬ Phụ Mẫu Tuất Thổ ▬▬▬ Huynh Đệ Thân Kim (Ứng) ▬▬▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa ▬▬▬ Huynh Đệ Thân Kim ▬ ▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa (Thế) ▬ ▬ Phụ Mẫu Thìn Thổ THIÊN ĐỊA BỈ ▬▬▬ Phụ Mẫu Tuất Thổ ▬▬▬ Huynh Đệ Thân Kim (Ứng) ▬▬▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa ▬▬▬ Huynh Đệ Thân Kim ▬ ▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa (Thế) ▬ ▬ Phụ Mẫu Thìn Thổ THIÊN ĐỊA BỈ ▬▬▬ Phụ Mẫu Tuất Thổ (Ứng) ▬▬▬ Huynh Đệ Thân Kim ▬▬▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa ▬ ▬ Thê Tài Mão Mộc (Thế) ▬ ▬ Quan Quỷ Tỵ Hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ PHONG ĐỊA QUAN ▬▬▬ Thê Tài Mão Mộc ▬▬▬ Quan Quỷ Tỵ Hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ (Thế) ▬ ▬ Thê Tài Mão Mộc ▬ ▬ Quan Quỷ Tỵ Hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ (Ứng) SƠN ĐỊA BÁC ▬▬▬ Thê Tài Mão Mộc ▬▬▬ Quan Quỷ Tỵ Hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ (Thế) ▬ ▬ Thê Tài Mão Mộc ▬ ▬ Quan Quỷ Tỵ Hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ (Ứng) HỎA ĐỊA TẤN ▬▬▬ Quan Quỷ Tỵ Hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ ▬▬▬ Huynh Đệ Dậu Kim (Thế) ▬ ▬ Thê Tài Mão Mộc ▬ ▬ Quan Quỷ Tỵ hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ (Ứng) HỎA THIÊN ĐẠI HỮU ▬▬▬ Quan Quỷ Tỵ Hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ ▬▬▬ Huynh Đệ Dậu Kim (Thế) ▬▬▬ Phụ Mẫu Thìn Thổ (Thế) ▬▬▬ Thê Tài Dần Mộc ▬▬▬ Tử Tôn Tý Thủy Đó là 8 quẻ thuộc cung Càn. Cung Càn ngũ hành thuộc Kim nên Thân Dậu là hào Huynh Đệ vì giống nhau; Thìn Tuất Sửu Mùi là Phụ Mẫu vì Thổ sinh Kim; Tỵ Ngọ là hào Quan Quỷ vì là hào khắc (khắc mình là bệnh tật, hay quan lộc); Dần Mão là hào Tài vì mình khắc (sai khiến hay xài), là Thê Tài (vợ và tiền bạc); Hợi Tý là hào Tử Tôn vì mình sinh ra là con cháu (cũng là phúc đức vì do mình tạo ra). ĐOÀI VI TRẠCH ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ (Thế) ▬▬▬ Huynh Đệ Dậu Kim ▬▬▬ Tử Tôn Hợi Thủy ▬ ▬ Phụ Mẫu Sửu Thổ (Ứng) ▬▬▬ Thê Tài Mão Mộc ▬▬▬ Quan Quỷ Tỵ Hỏa TRẠCH THỦY KHỐN ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ ▬▬▬ Huynh Đệ Dậu Kim ▬▬▬ Tử Tôn Hợi Thủy (Ứng) ▬ ▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa ▬▬▬ Phụ Mẫu Thìn Thổ ▬ ▬ Thê Tài Dần Mộc (Thế) TRẠCH ĐỊA TUỴ ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ ▬▬▬ Huynh Đệ Dậu Kim (Ứng) ▬▬▬ Huynh Đệ Hợi Thủy ▬ ▬ Thê Tài Mão Mộc ▬ ▬ Quan Quỷ Tỵ Hỏa (Thế) ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ TRẠCH SƠN HÀM ▬ ▬ Phụ Mẫu Mùi Thổ (Ứng) ▬▬▬ Huynh Đệ Dâu Kim ▬▬▬ Tử Tôn Hợi Thủy ▬▬▬ Huynh Đệ Thân Kim (Thế) ▬ ▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Thìn Thổ THỦY SƠN KIỀN ▬ ▬ Tử Tôn Tý Thủy ▬▬▬ Phụ Mẫu Tuất Thổ ▬ ▬ Huynh Đệ Thân Kim (Thế) ▬▬▬ Huynh Đệ Thân Kim ▬ ▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Thìn Thổ (Ứng) ĐỊA SƠN KHIÊM ▬ ▬ Huynh Đệ Dậu Kim ▬ ▬ Tử Tôn Hợi Thủy (Thế) ▬ ▬ Phụ Mẫu Sửu Thổ ▬▬▬ Huynh Đệ Thân Kim ▬ ▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa (Ứng) ▬ ▬ Phụ Mẫu Thìn Thổ LÔI SƠN TIỂU QUÁ ▬ ▬ Phụ Mẫu Tuất Thổ ▬ ▬ Huynh Đệ Thân Kim ▬▬▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa (Thế) ▬▬▬ Huynh Đệ Thân Kim ▬ ▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Thìn Thổ (Ứng) LÔI TRẠCH QUY MUỘI ▬ ▬ Phụ Mẫu Tuất Thổ (Ứng) ▬ ▬ Huynh Đệ Thân Kim ▬▬▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Sửu Thổ (Thế) ▬▬▬ Thê Tài Mão Mộc ▬▬▬ Quan Quỷ Tỵ Hỏa Đó là 8 quẻ của cung Đoài. Cung Đoài cũng thuộc hành Kim như cung Càn, nên vẫn lấy Kim làm Huynh Đệ và lục thân giống như cung Càn ở trên. CUNG LY LY VI HỎA HỎA SƠN LỮ HỎA PHONG ĐÌNH HỎA THỦY VỊ TẾ SƠN THỦY MÔNG PHONG THỦY HOÁN THIÊN THỦY TỤNG THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN LY VI HỎA ▬▬▬ Huynh Đệ Tỵ Hỏa (Thế) ▬ ▬ Tử Tôn Mùi Thổ ▬▬▬ Thê Tài Dậu Kim ▬▬▬ Quan Quỷ Hợi Thủy (Ứng) ▬ ▬ Tử Tôn Sửu Thổ ▬▬▬ Phụ Mẫu Mão Mộc HỎA SƠN LỮ ▬▬▬ Huynh Đệ Tỵ Hỏa ▬ ▬ Tử Tôn Mùi Thổ ▬▬▬ Thê Tài Dậu Kim (Ứng) ▬▬▬ Thê Tài Thân Kim ▬ ▬ Huynh Đệ Ngọ Hỏa ▬ ▬ Tử Tôn Thìn Thổ (Thế) ▬▬▬ Quan Quỷ Ngọ Hỏa ▬ ▬ Phụ Mẫu Sửu Thổ (Thế) ▬▬▬ Thê Tài Mão Mộc ▬▬▬ Quan Quỷ Tỵ Hỏa HỎA PHONG ĐỈNH ▬▬▬ Huynh Đệ Tỵ Hỏa ▬ ▬ Tử Mẫu Mùi Thổ (Ứng) ▬▬▬ Thê Tài Dậu Kim ▬▬▬ Thê Tài Dậu Kim ▬▬▬ Quan Quỷ Hợi Thủy (Thế) ▬ ▬ Tử Tôn Sửu Thổ HỎA THỦY VỊ TẾ ▬▬▬ Huynh Đệ Tỵ Hỏa (Ứng) ▬ ▬ Tử Tôn Mùi Thổ ▬▬▬ Thê Tài Dậu Kim ▬ ▬ Huynh Đệ Ngọ Hỏa (Thế) ▬▬▬ Tử Tôn Thìn Thổ ▬ ▬ Phụ Mẫu Dần Mộc SƠN THUỶ MÔNG ▬▬▬ Phụ Mẫu Dần Mộc ▬ ▬ Quan Quỷ Tý Thủy ▬ ▬ Tử Tôn Tuất Thổ (Thế) ▬ ▬ Huynh Đệ Ngọ Hỏa ▬▬▬ Tử Tôn Thìn Thổ ▬ ▬ Phu Mẫu Dần Mộc (Ứng) PHONG THUỶ HOÁN ▬▬▬ Phụ Mẫu Mão Mộc ▬▬▬ Huynh Đệ Tỵ Hỏa (Thế) ▬▬▬ Tử Tôn Mùi Thổ ▬ ▬ Huynh Đệ Ngọ Hỏa ▬▬▬ Tử Tôn Thìn Thổ (Ứng) ▬ ▬ Phụ Mẫu Dần Mộc THIÊN THỦY TỤNG ▬▬▬ Tử Tôn Tuất Thổ ▬▬▬ Thê Tài Thân Kim ▬▬▬ Huynh Đệ Ngọ Hỏa (Thế) ▬ ▬ Huynh Đệ Ngọ Hỏa ▬▬▬ Tử Tôn Thìn Thổ ▬ ▬ Phụ Mẫu Dần Mộc (Ứng) THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN ▬▬▬ Tử Tôn Tuất Thổ (Ứng) ▬▬▬ Thê Tài Thân Kim ▬▬▬ Huynh Đệ Ngọ Hỏa ▬▬▬ Quan Quỷ Hợi Thủy (Thế) ▬ ▬ Tử Tôn Sửu Thổ ▬▬▬ Phụ Mẫu Mão Mộc Đó là 8 quẻ của cung Ly. Cung Ly ngũ hành thuộc Hỏa, nên lấy Hỏa làm hành chính mà phối với lục Thân, như sinh ra Hỏa là Mộc Dần Mão là cha mẹ. Hỏa sinh ra Thổ nên Thìn Tuất Sửu Mùi là Tử Tôn... 4. CUNG CHẤN 1. CHẤN VI LÔI 2. LÔI ĐỊA DƯ 3. LÔI THỦY GIẢI 4. LÔI PHONG HẰNG 5. ĐỊA PHONG THĂNG 6. THỦY PHONG TỈNH 7. TRẠCH LÔI ĐỊA QUÁ 8. TRẠCH PHONG TÙY CHẤN VI LÔI ▬ ▬ Thê Tài Tuất Thổ (Thế) ▬ ▬ Quan Quỷ Thân Kim ▬▬▬ Tử Tôn Ngọ Hỏa ▬ ▬ Thê Tài Thìn Thổ (Ứng) ▬ ▬ Huynh Đệ Dân Mộc ▬▬▬ Phụ Mẫu Tý Thủy LÔI ĐỊA DỰ ▬ ▬ Thê Tài Tuất Thổ ▬ ▬ Quan Quỷ Thân Kim ▬▬▬ Tử Tôn Ngọ Hỏa (Ứng) ▬ ▬ Huynh Đệ Mão Mộc ▬ ▬ Tử Tôn Tỵ Hỏa ▬▬▬ Thê Tài Mùi Thổ (Thế) LÔI THUỶ GIẢI ▬ ▬ Thê Tài Tuất Thổ ▬ ▬ Quan Quỷ Thân Kim (Ứng) ▬▬▬ Tử Tôn Ngọ Hỏa ▬ ▬ Tử Tôn Ngọ Hỏa ▬▬▬ Thê Tài Thìn Thổ (Thế) ▬ ▬ Huynh Đệ Dần Mộc LÔI PHONG HẰNG ▬ ▬ Thê Tài Tuất Thổ (Ứng) ▬ ▬ Quan Quỷ Thân Kim ▬▬▬ Tử Tôn Ngọ Hỏa ▬▬▬ Quan Quỷ Dậu Kim (Thế) ▬▬▬ Phụ Mẫu Hợi Thủy ▬ ▬ Thê Tài Sửu Thổ ĐỊA PHONG THĂNG ▬ ▬ Quan Quỷ Dậu Kim ▬ ▬ Phụ Mẫu Hợi Thủy ▬ ▬ Thê Tài Sửu Thổ (Thế) ▬▬▬ Quan Quỷ Dậu Kim ▬▬▬ Phụ Mẫu Hợi Thủy ▬ ▬ Thê Tài Sửu Thổ (Ứng) THUỶ PHONG TỈNH ▬ ▬ Phụ Mẫu Tý Thủy ▬▬▬ Thê Tài Tuất Thổ (Thế) ▬ ▬ Quan Quỷ Thân Kim ▬▬▬ Quan Quỷ Dậu Kim ▬▬▬ Phụ Mẫu Hợi Thủy (Ứng) ▬ ▬ Thê Tài Sửu Thổ TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ ▬ ▬ Thê Tài Mùi Thổ ▬▬▬ Quan Quỷ Dậu Kim ▬▬▬ Phụ Mẫu Hợi Thủy (Thế) ▬▬▬ Quan Quỷ Dậu Kim ▬▬▬ Phụ Mẫu Hợi Thủy ▬ ▬ Thê Tài Sửu Thổ (Ứng) TRẠCH LÔI TÙY ▬ ▬ Thê Tài Mùi Thổ (Ứng) ▬▬▬ Quan Quỷ Dâu Kim ▬▬▬ Phụ Mẫu Hợi Thủy ▬ ▬ Thê Tài Thìn Thổ (Thế) ▬ ▬ Huynh Đệ Dân Mộc ▬▬▬ Phụ Mẫu Tý Thủy Đó là 8 quẻ thuộc cung Chấn. Cung Chấn ngũ hành thuộc Mộc, nên dựa theo Mộc mà phối lục thân. 5. CUNG TỐN 1. TỐN VI PHONG 2. PHONG THIÊN TIỂU SÚC 3. PHONG HỎA GIA NHÂN 4. PHONG LÔI ÍCH 5. THIÊN LÔI VÔ VỌNG 6. HỎA LÔI PHỆ HẠP 7. SƠN LÔI DI 8. SƠN PHONG CỔ TỐN VI PHONG ▬▬▬ Huynh Đệ Mão Mộc (Thế) ▬▬▬ Tử Tôn Tỵ Hỏa ▬ ▬ Thê Tài Mùi Thổ ▬▬▬ Quan Quỷ Dậu Kim (Ứng) ▬▬▬ Phụ Mẫu Hợi Thủy ▬ ▬ Thê Tài Sửu Thổ PHONG THIÊN TIỂU SÚC ▬▬▬ Huynh Đệ Mão Mộc ▬▬▬ Tử Tôn Tỵ Hỏa ▬ ▬ Thê Tài Mùi Thổ (Ứng) ▬▬▬ Thê Tài Thìn Thổ ▬▬▬ Huynh Đệ Dần Mộc ▬▬▬ Phụ Mẫu Tý Thủy (Thế) PHONG HỎA GIA NHÂN ▬▬▬ Huynh Đệ Mão Mộc ▬▬▬ Tử Tôn Tỵ Hỏa (Ứng) ▬ ▬ Thê Tài Mùi Thổ ▬▬▬ Phụ Mẫu Hợi Thủy ▬ ▬ Thê Tài Sửu Thổ (Thế) ▬▬▬ Huynh Đệ Mão Mộc PHONG LÔI ÍCH ▬▬▬ Huynh Đệ Mão Mộc (Ứng) ▬▬▬ Tử Tôn Tỵ Hỏa ▬ ▬ Thê Tài Mùi Thổ ▬ ▬ Thê Tài Thìn Thổ (Thế) ▬ ▬ Huynh Đệ Dần Mộc ▬▬▬ Phụ Mẫu Tý Thủy THIÊN LÔI VÔ VỌNG ▬▬▬ Thê Tài Tuất Thổ ▬▬▬ Quan Quỷ Thân Kim ▬▬▬ Tử Tôn Ngọ Hỏa (Thế) ▬ ▬ Thê Tài Thìn Thổ ▬ ▬ Huynh Đệ Dần Mộc ▬▬▬ Phụ Mẫu Tý Thủy (Ứng) HỎA LÔI PHỆ HẠP ▬▬▬ Tử Tôn Tỵ Hỏa ▬ ▬ Thê Tài Mùi Thổ (Thế) ▬▬▬ Quan Quỷ Dậu Kim ▬ ▬ Thê Tài Thìn Thổ ▬ ▬ Huynh Đệ Dần Mộc (Ứng) ▬▬▬ Phụ Mẫu Tý Thủy SƠN LÔI DI ▬▬▬ Huynh Đệ Dần Mộc ▬ ▬ Phụ Mẫu Tý Thủy ▬ ▬ Thê Tài Tuất Thổ (Thế) ▬ ▬ Thê Tài Thìn Thổ ▬ ▬ Huynh Đệ Dần Mộc ▬▬▬ Phụ Mẫu Tý Thủy (Ứng) SƠN PHONG CỔ ▬▬▬ Huynh Đệ Dần Mộc (Ứng) ▬ ▬ Phụ Mẫu Tý Thủy ▬ ▬ Thê Tài Tuất Thổ ▬▬▬ Quan Quỷ Dậu Kim (Thế) ▬▬▬ Phụ Mẫu Hợi Thủy ▬ ▬ Thê Tài Sửu Thổ Đó là 8 quẻ của cung Tốn. Cung Tốn ngũ hành thuộc Mộc 6. CUNG KHẢM 1. KHẢM VI THỦY 2. THỦY TRẠCH TIẾT 3. THỦY LÔI TRUÂN 4. THỦY HOẢ KÝ TẾ 5. TRẠCH HỎA KẾ 6. LÔI HỎA PHONG 7. ĐỊA HỎA MINH DI 8. ĐỊA THỦY SƯ KHẢM VI THỦY ▬ ▬ Huynh Đệ Tý Thủy (Thế) ▬▬▬ Quan Quỷ Tuất Thổ ▬ ▬ Phụ Mẫu Thân Kim ▬ ▬ Thê Tài Ngọ Hỏa (Ứng) ▬▬▬ Quan Quỷ Thìn Thổ ▬ ▬ Tử Tôn Dần Mộc THỦY TRẠCH TIẾT ▬ ▬ Huynh Đệ Tý Thủy ▬▬▬ Quan Quỷ Tuất Thổ ▬ ▬ Phụ Mẫu Thân Kim (Ứng) ▬ ▬ Quan Quỷ Sửu Thổ ▬▬▬ Tử Tôn Mão Mộc ▬▬▬ Thê Tài Tỵ Hỏa (Thế) THỦY LÔI TRUÂN ▬ ▬ Huynh Đệ Tý Thủy ▬▬▬ Quan Quỷ Tuất Thổ (Ứng) ▬ ▬ Phụ Mẫu Thân Kim ▬ ▬ Quan Quỷ Thìn Thổ ▬ ▬ Tử Tôn Dần Mộc (Thế) ▬▬▬ Huynh Đệ Tý Thủy THỦY HOẢ KÝ TẾ ▬ ▬ Huynh Đệ Tý Thủy (Ứng) ▬▬▬ Quan Quỷ Tuất Thổ ▬ ▬ Phụ Mẫu Thân Kim ▬▬▬ Huynh Đệ Hợi Thuỷ (Thế) ▬ ▬ Quan Quỷ Sửu Thổ ▬▬▬ Tử Tôn Mão Mộc TRẠCH HỎA CÁCH ▬ ▬ Quan Quỷ Mùi Thổ ▬▬▬ Phụ Mẫu Dậu Kim ▬▬▬ Huynh Đệ Hợi Thủy (Thế) ▬▬▬ Huynh Đệ Hợi Thủy ▬ ▬ Quan Quỷ Sửu Thổ ▬▬▬ Tử Tôn Mão Mộc (Ứng) LÔI HỎA PHONG ▬ ▬ Quan Quỷ Tuất Thổ ▬ ▬ Phụ Mẫu Thân Kim (Thế) ▬▬▬ Thê Tài Ngọ Hỏa ▬▬▬ Huynh Đệ Hợi Thủy ▬ ▬ Quan Quỷ Sửu Thổ (Ứng) ▬▬▬ Tử Tôn Mão Mộc ĐỊA HỎA MINH DI ▬ ▬ Phụ Mẫu Dậu Kim ▬ ▬ Huynh Đệ Hợi Thủy ▬ ▬ Quan Quỷ Sửu Thổ (Thế) ▬▬▬ Huynh Đệ Hợi Thủy ▬ ▬ Quan Quỷ Sửu Thổ ▬▬▬ Tử Tôn Mão Mộc (Ứng) ĐỊA THỦY SƯ ▬ ▬ Phụ Mẫu Dậu Kim (Ứng) ▬ ▬ Huynh Đệ Hợi Thủy ▬ ▬ Quan Quỷ Sửu Thổ ▬ ▬ Thê Tài Ngọ Hỏa (Thế) ▬▬▬ Quan Quỷ Thìn Thổ ▬ ▬ Tử Tôn Thân Kim Đó là 8 quẻ thuộc cung Khảm. Cung Khảm ngũ hành thuộc Thủy. 7. CUNG CẤN 1. CẤN VI SƠN 2. SƠN HỎA BÔN 3. SƠN THIÊN ĐẠI SÚC 4. SƠN TRẠCH TỐN 5. HỎA TRẠCH KHÊ 6. THIÊN TRẠCH LÝ 7. PHONG TRẠCH TRUNG PHU 8. PHONG SƠN TIỆM CẤN VI SƠN ▬▬▬ Quan Quỷ Dần Mộc (Thế) ▬ ▬ Thê Tài Tý Thủy ▬ ▬ Huynh Đệ Tuất Thổ ▬▬▬ Tử Tôn Thân Kim (Ứng) ▬ ▬ Phụ Mẫu Ngọ Hỏa ▬ ▬ Huynh Đệ Thìn Thổ SƠN HỎA BÔN ▬▬▬ Quan Quỷ Dần Mộc ▬ ▬ Thê Tài Tý Thủy ▬ ▬ Huynh Đệ Tuất Thổ (Ứng) ▬▬▬ Thê Tài Hợi Thủy ▬ ▬ Huynh Đệ Sửu Thổ ▬▬▬ Quan Quỷ Mão Mộc (Thế) SƠN THIÊN ĐẠI SÚC ▬▬▬ Quan Quỷ Dần Mộc ▬ ▬ Thê Tài Tý Thủy (Ứng) ▬ ▬ Huynh Đệ Tuất Thổ ▬▬▬ Huynh Đệ Thìn Thổ ▬▬▬ Quan Quỷ Dần Mộc (Thế) ▬▬▬ Thê Tài Tý Thủy SƠN TRẠCH TỔN ▬▬▬ Quan Quỷ Dần Mộc (Ứng) ▬ ▬ Thê Tài Tý Thủy ▬ ▬ Huynh Đệ Tuất Thổ ▬ ▬ Huynh Đệ Sửu Thổ (Thế) ▬▬▬ Quan Quỷ Mão Mộc ▬▬▬ Phụ Mẫu Tỵ Hỏa HỎA TRẠCH KHUÊ ▬▬▬ Phụ Mẫu Tỵ Hoả ▬ ▬ Huynh Đệ Mùi Thổ ▬▬▬ Tử Tôn Dậu Kim (Thế) ▬ ▬ Huynh Đệ Sửu Thổ ▬▬▬ Quan Quỷ Mão Mộc ▬▬▬ Phụ Mẫu Tỵ Hỏa (Ứng) THIÊN TRẠCH LÝ ▬▬▬ Huynh Đệ Tuất Thổ ▬▬▬ Tử Tôn Thân Kim (Thế) ▬▬▬ Phụ Mẫu Ngọ Hỏa ▬ ▬ Huynh Đệ Sửu Thổ ▬▬▬ Quan Quỷ Mão Mộc (Ứng) ▬▬▬ Phụ Mẫu Tỵ Hỏa PHONG TRẠCH TRUNG PHU ▬▬▬ Quan Quỷ Mão Mộc ▬▬▬ Phụ Mẫu Tỵ Hỏa ▬ ▬ Huynh Đệ Mùi Thổ (Thế) ▬ ▬ Huynh Đệ Sửu Thổ ▬▬▬ Quan Quỷ Mão Mộc ▬▬▬ Phụ Mẫu Tỵ Hỏa (Ứng) PHONG SƠN TIỆM ▬▬▬ Quan Quỷ Mão Mộc (Ứng) ▬▬▬ Phụ Mẫu Tỵ Hỏa ▬ ▬ Huynh Đệ Mùi Thổ ▬▬▬ Tử Tôn Thân Kim (Thế) ▬ ▬ Phụ Mẫu Ngọ Hỏa ▬ ▬ Huynh Đệ Thìn Thổ Đó là 8 quẻ thuộc cung Cấn. Cung Cấn thuộc Thổ. 8. CUNG KHÔN 1. KHÔN VI ĐỊA 2. ĐỊA LÔI PHỤC 3. ĐỊA TRẠCH LÂM 4. ĐỊA THIÊN THÁI 5. LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG 6. TRẠCH THIÊN QUẢI 7. THỦY THIÊN NHU 8. THỦY ĐỊA TỶ KHÔN VI ĐỊA ▬ ▬Tử Tôn Dậu Kim (Thế) ▬ ▬Thê Tài Hợi Thủy ▬ ▬Huynh Đệ Sửu Thổ ▬ ▬Quan Quỷ Mão Mộc (Ứng) ▬ ▬Phụ Mẫu Tỵ Hỏa ▬ ▬Huynh Đệ Mùi Thổ ĐỊA LÔI PHỤC ▬ ▬ Tử Tôn Dậu Kim ▬ ▬ Thê Tài Hợi Thủy ▬ ▬ Huynh Đệ Sửu Thổ (Ứng) ▬ ▬ Huynh Đệ Thìn Thổ ▬ ▬ Quan Quỷ Dần Mộc ▬▬▬ Thê Tài Tý Thủy (Thế) ĐỊA TRẠCH LÂM ▬ ▬ Tử Tôn Dậu Kim ▬ ▬ Thê Tài Hợi Thủy (Ứng) ▬ ▬ Huynh Đệ Sửu Thổ ▬ ▬ Huynh Đệ Sửu Thổ ▬ ▬ Quan Quỷ Mão Mộc (Thế) ▬▬▬ Phụ mẫu Tỵ Hỏa ĐỊA THIÊN THÁI ▬ ▬ Tử Tôn Dậu Kim (Ứng) ▬ ▬ Thê Tài Hợi Thủy ▬ ▬ Huynh Đệ Sửu Thổ ▬▬▬ Huynh Đệ Thìn Thổ (Thế) ▬▬▬ Quan Quỷ Dần Mộc ▬▬▬ Thê Tài Tý Thủy LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG ▬ ▬ Huynh Đệ Tuất ▬ ▬ Tử Tôn Thân Kim ▬▬▬ Phụ Mẫu Ngọ Hỏa (Thế) ▬▬▬ Huynh Đệ Thìn Thổ ▬▬▬ Quan Quỷ Dần Mộc ▬▬▬ Thê Tài Tý Thủy (Ứng) TRẠCH THIÊN QUẢI ▬ ▬ Huynh Đệ Mùi Thổ ▬▬▬ Tử Tôn Dậu Kim (Thế) ▬▬▬ Thê Tài Hợi Thủy ▬▬▬ Huynh Đệ Thìn Thổ ▬▬▬ Quan Quỷ Dần Mộc (Ứng) ▬▬▬ Thê Tài Tý Thủy THỦY THIÊN NHU ▬ ▬ Thê Tài Tý Thủy ▬▬▬ Huynh Đệ Tuất ▬ ▬ Tử Tôn Thân Thế (Thế) ▬▬▬ Huynh Đệ Thìn ▬▬▬ Quan Quỷ Dần ▬▬▬ Thê Tài Tý Thủy (Ứng) THỦY ĐỊA TỶ ▬ ▬ Thê Tài Tý Thuỷ (Ứng) ▬▬▬ Huynh Đệ Tuất Thổ ▬ ▬ Tử Tôn Thân Kim ▬ ▬ Quan Quỷ Mão Mộc (Thế) ▬ ▬ Phụ Mẫu Tỵ Hỏa ▬ ▬ Huynh Đệ Mùi Thổ Đó là 8 quẻ thuộc cung Khôn. Cung Khôn ngũ hành thuộc Thổ.
Số biến quái 1/- Khảm 6 - 1 - Hào 1: biến Đoài 2 - 7 - Hào 2: biến Khôn 8 - 2 - Hào 3: biến Tốn 5 - 4 - Tiên thiên Khảm 6 => 2 – 8 – 5 = 15 - Hậu thiên Khảm 1 = > 7 – 2 – 4 = 13 2/- Khôn 8 – 2 - Hào 1: biến Chấn 4 – 3 - Hào 2: biến Khảm 6 – 1 - Hào 3: biến Cấn 8 – 7 - Tiên thiên Khôn 8 => 4 – 6 – 7 = 17 - Hậu thiên Khôn 2 => 3 – 1 – 8 = 12 3/- Chấn 4 - 3 - Hào 1: biến Khôn 8 – 2 - Hào 2: biến Đoài 2 – 7 - Hào 3: biến Ly 3 – 9 - Tiên thiên Chấn 4 => 8 – 2 – 3 = 13 - Hậu thiên Chấn 3 => 2 – 7 – 9 = 18 4/- Tốn 5 – 4 - Hào 1: biến Càn 1 – 6 - Hào 2: biến Cấn 7 – 8 - Hào 3: biến Khảm 6 – 1 - Tiên thiên Tốn 5 => 1 – 7 – 6 = 14 - Hậu thiên Tốn 4 => 6 – 8 – 1 = 15 6/- Càn 1 – 6 - Hào 1: biến Tốn 5 – 4 - Hào 2: biến Ly 3 – 9 - Hào 3: biến Đoài 2 – 7 - Tiên thiên Càn 1 => 5 – 3 – 2 = 10 - Hậu thiên Càn 6 => 4 – 9 – 7 = 20 7/- Đoài 2 – 7 - Hào 1: biến Khảm 6 – 1 - Hào 2: biến Chấn 4 – 3 - Hào 3: biến Càn 1 – 6 - Tiên thiên Đoài 2 => 6 – 4 – 1 = 11 - Hậu thiên Đoài 7 => 1 – 3 – 6 = 10 8/- Cấn 7 – 8 - Hào 1: biến Ly 3 – 9 - Hào 2: biến Tốn 5 – 4 - Hào 3: biến Khảm 6 – 1 - Tiên thiên Cấn 7 => 3 – 5 – 6 = 14 - Hậu thiên Cấn 8 => 9 – 4 – 1 = 14 9/- Ly 3 – 9 - Hào 1: biến Cấn 7 – 8 - Hào 2: biến Càn 1 - 6 - Hào 3: biến Chấn 4 – 3 - Tiên thiên Ly 3 => 7 – 1 – 4 = 12 - Hậu thiên Ly 9 => 8 – 6 – 3 = 17 Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn 10 11 12 13 14 15 14 17 [ Tiên thiên ] 20 10 17 18 15 13 14 12 [ Hậu thiên ]